Feel free to go with the truth

Trang chủ / BÀI VIẾT & ẤN PHẨM CỦA FDVN / ÔNG PHAN VĂN ANH VŨ VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TỪ CÁC BẢN ÁN (KỲ 5): XỬ LÝ THẾ NÀO ĐỐI VỚI CÁC GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA ĐỒNG SỞ HỮU?

ÔNG PHAN VĂN ANH VŨ VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TỪ CÁC BẢN ÁN (KỲ 5): XỬ LÝ THẾ NÀO ĐỐI VỚI CÁC GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA ĐỒNG SỞ HỮU?

ÔNG PHAN VĂN ANH VŨ VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TỪ CÁC BẢN ÁN (KỲ 5): XỬ LÝ THẾ NÀO ĐỐI VỚI CÁC GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA ĐỒNG SỞ HỮU?

Hàng xóm kêu rằng chiếc xe máy cho người bạn mượn đang bị tịch thu vì bạn dùng chiếc xe để vận chuyển hàng cấm, bị xử lý hình sự, tài sản tự nhiên mất, vậy anh hàng xóm nhà bạn có oan không?

Người vợ vô can ngơ ngác bị cưỡng chế thu hồi tài sản chung của hai vợ chồng khi chỉ người chồng vi phạm pháp luật, như vậy có được không?

Thử tìm hiểu các quy định liên quan đến việc tịch thu, thu hồi tài sản thuộc đồng sở hữu, hoặc sở hữu của người khác trong một vụ án hình sự điển hình …

&
Bản án số 346/2019/HS-PT (Bản án số 346) đã tuyên các giao dịch về việc mua/bán; thuê/cho thuê đối với 7 tài sản Nhà nước gồm nhà đất tại 319 Lê Duẩn, Dự án Vệt tại đường Trường Sa (TP Đà Nẵng) và 05 tài sản khác là vô hiệu. Các tài sản khác bị tạm giữ, tịch thu, kê biên …

Bản án số 158/2020/HS-PT (Bản án 158) cũng tuyên giao cho Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng thu hồi hàng loạt nhà, đất; tuyên kê biên hàng loạt nhà đất khác để đảm bảo thi hành án cho cá nhân ông Phan Văn Anh Vũ…

Vấn đề là, trong nhiều tài sản đó, tiền bạc để đi mua tài sản, công sức tạo dựng nên các tài sản đó không phải thuộc sở hữu của một mình ông Vũ …

XỬ LÝ HẬU QUẢ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ ĐỐI VỚI TÀI SẢN THUỘC SỞ HỮU CHUNG NHƯ THẾ NÀO?

Theo quy định của pháp luật, người phạm tội có thể vừa bị xử phạt theo các hình phạt theo Điều 32 Bộ luật hình sự 2015, nhưng đồng thời cũng có thể bị bị áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định theo Điều 46 Bộ luật hình sự 2015.

Theo bản án 346, 158 thì về trách nhiệm hình sự ông Vũ bị xử phạt hình phạt chính là hình phạt tù, không có hình phạt bổ sung về tịch thu tài sản.

Do đó, các vấn đề trách nhiệm pháp lý liên quan đến việc xử lý tài sản của ông Vũ được áp dụng các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, theo đó ông Vũ có thể bị áp dụng các biện pháp tư pháp là: (i) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; (ii) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; (iii) Bắt buộc chữa bệnh.

Đây là các biện pháp tư pháp chỉ áp dụng đối với cá nhân tội phạm, những người khác không có liên quan và không có lỗi sẽ không bị xử lý tài sản của họ theo quy định cụ thể tại Điều 47 Bộ luật hình sự 2015.

Trên thự tế, bản án 346 đã tuyên tịch thu số tiền hưởng lợi là 135 tỷ đồng (bằng số thiệt hại), tịch thu 5.8 tỷ đồng được cho là lợi ích phát sinh từ tài sản đã nhận chuyển nhượng, tuyên tịch thu số tiền hơn 417 tỷ đồng bỏ ra nhận chuyển nhượng nhà đất (xác định là công cụ phương tiện phạm tội) …

Trong các số tiền đó, số tiền 417 tỷ đồng hay các tài sản nhà đất nếu được xem là công cụ, phương tiện phạm tội chỉ khi tài sản này thuộc sở hữu của duy nhất người bị buộc tội thì có thể được tịch thu theo các quy định của Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015. Thế nhưng, nếu số tiền đó là tài sản chung của vợ chồng, tài sản chung của các cổ đông khác của công ty, không phải tài sản của một mình ông Vũ.

Tương tự, trong bản án 158, có các tài sản đã bị tuyên thu hồi, nhưng rõ ràng quyền sở hữu tài sản bị thu hồi lại của cá nhân khác, không liên quan đến ông Vũ, hoặc tài sản bị thu hồi thuộc đồng sở hữu của ông Vũ với những người khác.

Theo quy định của Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, trong quá trình điều tra xử lý vụ án họ là bên thứ ba không có lỗi, không liên quan đến vụ án thì không thể thu hồi các tài sản thuộc sở hữu của những người liên quan đó. Căn cứ theo khoản 4 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, việc xử lý vấn đề phân chia quyền sở hữu chung dù là vật chứng được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Như vậy, ngay cả đối với vật chứng của một vụ án hình sự, các quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đều xác định chỉ có thể tịch thu toàn bộ tài sản là vật chứng của vụ án hình sự nếu tài sản đó là tài sản thuộc sở hữu duy nhất của người phạm tội, nếu tài sản của đồng sở hữu, tài sản của người khác mà những người đó không liên quan, không có lỗi thì phải dành cho họ quyền được sở hữu các tài sản đó, nếu tài sản đã được xác định rõ ràng thì trả lại cho họ, nhưng nếu chưa được phân chia thì phải trao cho họ quyền được giải quyết bằng một trình tự khởi kiện vụ án hình sự theo quy định tại khoản 4 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Dễ dàng nhận thấy rằng trước khi phát sinh việc nhận chuyển nhượng nhà đất, thì số tiền mà các doanh nghiệp, cá nhân dùng để mua nhà đất đó không có nguồn gốc từ việc vi phạm pháp luật mà có, số tiền đó là công sức tạo lập, là tài sản của chung vợ chồng hoặc tài sản góp vốn của các thành viên khác. Do đó, khi xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu trong vụ án hình sự trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 và theo quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì sẽ có hai hướng xử lý như sau:

– Một là, theo nguyên tắc dân sự, thì khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên phải hoãn trả lại cho nhau những gì đã nhận, nhà nước nhận lại nhà đất, người mua nhà đất nhận lại toàn bộ tiền.

– Hai là, theo quy định về tịch thu vật chứng của vụ án hình sự thì, chỉ tịch thu tài sản của người phạm tội, còn cá nhân khác liên quan có sở hữu tài sản thì dù là vật chứng cũng phải trả lại cho họ, nếu có tranh chấp về các tài sản này liên quan đến quyền sở hữu thì họ phải được giải quyết xử lý theo trình tự tố tụng dân sự theo luật định.

Tuy nhiên, nếu theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 thì vấn đề này được quy định như sau: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. 3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. 4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. 5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

Như vậy, so với Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật dân sự 2015 chỉ quy định việc các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, không có quy định về việc tài sản giao dịch bị tịch thu khi giao dịch dân sự bị vô hiệu.

Bản án 346 áp dụng Bộ luật dân sự 2005, thế nhưng ngay cả trong trường hợp bất lợi hơn so với luật mới đó, thì rõ ràng, trong vụ án hình sự nếu chưa giải quyết được quyền lợi cho các bên thứ ba thì chính Bộ luật hình sự 2015 đã có quy định để các bên thứ ba liên quan đến tài sản chung bị tịch thu được quyền khởi kiện các vụ án dân sự để bảo vệ tài sản của mình. Pháp luật vì thế không tước đi quyền tài sản của những người không liên quan đến vụ án.

TỪ BẢN ÁN HÌNH SỰ ĐẾN QUYỀN KHỞI KIỆN DÂN SỰ CỦA CÁC BÊN THỨ BA TRONG QUÁ TRÌNH THI HÀNH ÁN ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO?

Như đã nêu ở trên, Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tách ra vấn đề quyền khởi kiện dân sự đối với các tài sản bị tịch thu, thu hồi khi nó là vật chứng của vụ án cho các đương sự có chung quyền sở hữu tài sản đối với vật chứng.

Khi xét xử, tòa án có thể không điều tra để xử lý vấn đề dân sự, nhưng quyền khởi kiện dân sự của các bên thứ ba trong vụ án hình sự không bị tước đi, tài sản bị thu hồi, tịch thu trong vụ án hình sự không phải là tài sản đã được giải quyết tương tự như Án lệ số 38/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 13/8/2020. Theo đó, từ nguồn án lệ là Quyết định giám đốc thẩm số 28/2019/DS-GĐT ngày 12-11-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tình huống án lệ đặt ra như sau: “Sau khi tài sản là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đã được phân chia bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì có người khác (không phải là đương sự trong vụ án đó) khởi kiện đòi quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đó.” Giải pháp pháp lý của Án lệ là: “Trường hợp này, Tòa án không thụ lý vụ án mới. Người có yêu cầu đòi quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của pháp luật.” Như vậy, vấn đề của án lệ số 38 là vấn đề tài sản đã được xử lý, đã được giải quyết, đã được phân chia về quyền sở hữu, đó không phải là tài sản bị xử lý theo thủ tục tố tụng.

Đối với bản án 346, 158 thì các tài sản được thu hồi không phải là các tài sản đã được giải quyết phân chia với các đồng sở hữu, các đồng sở hữu vẫn còn nguyên đó quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Điều này cũng phù hợp hoàn toàn với các quy định của pháp luật thi hành án dân sự, các tài sản bị kê biên để xử lý thi hành án phải được thực hiện trên nguyên tắc chỉ xử lý đối với tài sản của người bị thi hành án, những người khác không bị thi hành án mà tài sản thuộc sở hữu của họ bị thu hồi, kê biên thì họ có các quyền sau đây theo quy định tại Điều 74 Luật thi hành án dân sự 2008 đã được sửa đổi 2014:

“Điều 74. Xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án
1. Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.

2. Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau:

a) Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án;

b) Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

3. Chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung.

Trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên thông báo và định thời hạn cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định trong thời hạn 03 tháng đối với bất động sản, 01 tháng đối với động sản; đối với những lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn ưu tiên mà chủ sở hữu chung không mua tài sản thì tài sản được bán theo quy định tại Điều 101 của Luật này.”

Dựa vào các quy định được dẫn, tại Mục III.6 của Bản án số 158/2020/HS-PT, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã quyết định: “Dành quyền khởi kiện cho các cá nhân, tổ chức có liên quan đến các dự án, nhà, đất công sản bị thu hồi bằng vụ kiện dân sự khác khi có yêu cầu”.

Tương tự, đối với phần đã có hiệu lực do không bị sửa theo bản án 346, thì bản án sơ thẩm hình sự số 48/2019/HS-ST của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cũng đã tuyên dành quyền khởi kiện cho các tổ chức, cá nhân liên quan.

VẬY, NẾU KHI TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN, CƠ QUAN THI HÀNH ÁN MÀ KHÔNG THÔNG BÁO CHO CÁC ĐỒNG SỞ HỮU, CÁC BÊN LIÊN QUAN THỰC HIỆN QUYỀN KHỞI KIỆN DÂN SỰ ĐỐI VỚI CÁC TÀI SẢN BỊ THU HỒI LÀ VỪA TRÁI VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT, VỪA KHÔNG TUÂN THỦ CHÍNH CÁC BẢN ÁN ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT

Từ các nội dung được dẫn có thể thấy, không chỉ là các tài sản thuộc diện kê biên, mà theo các quy định được viện dẫn, dù là tài sản thuộc diện bị tịch thu, thu hồi trong vụ án hình sự, thì nếu đó là tài sản chung của các đồng sở hữu, tài sản của họ phải được bảo vệ, không thể thu hồi tài sản của những người không vi phạm pháp luật, phải trả lại tài sản cho họ hoặc thông báo để họ khởi kiện các vụ án dân sự để bảo vệ quyền của mình. Tài sản của các cổ đông/thành viên của công ty, tài sản chung của vợ chồng, tài sản của bên thứ ba ngay tình không thể bị thu hồi hết để xử lý trách nhiệm cho một người vi phạm.

Luật sư Lê Cao – Công ty Luật FDVN

XEM THÊM CÁC KỲ TRƯỚC:

KỲ 1: ÔNG PHAN VĂN ANH VŨ VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TỪ CÁC BẢN ÁN (KỲ 1): MỘT TÒA ÁN, HAI CÁCH XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI …

KỲ 2: ÔNG PHAN VĂN ANH VŨ VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TỪ CÁC BẢN ÁN (KỲ 2): TỪ KẾT LUẬN CỦA HĐTP TAND TỐI CAO VỀ CÁCH XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI …

KỲ 3:ÔNG PHAN VĂN ANH VŨ VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TỪ CÁC BẢN ÁN (KỲ 3): ĐỒNG PHẠM HAY KHÔNG ĐỒNG PHẠM?

KỲ 4: ÔNG PHAN VĂN ANH VŨ VÀ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TỪ CÁC BẢN ÁN (KỲ 4): BÀN VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN CỦA ĐỒNG SỞ HỮU TÀI SẢN BỊ KÊ BIÊN

…………………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

 

Bài viết liên quan