Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / NHÓM F (FOB, FCA, FAS) TRONG INCOTERMS 2020 – NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT?

NHÓM F (FOB, FCA, FAS) TRONG INCOTERMS 2020 – NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT?

Nhóm này bao gồm ba điều kiện:

  1. FCA (“Free Carrier”): Giao hàng cho người chuyên chở
  2. FAS (“Free Alongside Ship”): Giao hàng dọc mạn tàu
  3. FOB (“Free On Board”): Giao hàng trên tàu

Nhóm F (chữ cái đầu tiên của từ “Free”) có thể hiểu là người bán được “Giải thoát trách nhiệm” giao hàng và “Không phải chịu chi phí” sau khi giao hàng cho người chuyên chở (Carrier) tại nơi quy định, hoặc giao hàng dọc mạn tàu (Alongside Ship) hoặc trên tàu (On Board) tại cảng bốc hàng quy định.

Các điều kiện nhóm F đều quy định nghĩa vụ ký hợp đồng vận tải là nghĩa vụ của người mua vì người bán chỉ có thể giao hàng khi người mua đã chỉ định người chuyên chở hoặc con tàu nhận hàng. Nếu người mua có thể ký hợp đồng vận tải với giá cước ưu đãi hoặc điều kiện thuận lợi thì người mua nên sử dụng các điều kiện nhóm F để giành quyền thu xếp hợp đồng vận tải.

1. Phân biệt các quy tắc nhóm F[1]

Trong khi FCA có thể được sử dụng cho bất cứ phương thức vận tải nào, FAS và FOB chỉ có thể được sử dụng khi hàng hóa được vận chuyển bằng đường biển hoặc đường thủy nội địa. Sự khác biệt giữa FAS và FOB chỉ là nghĩa vụ bốc hàng lên tàu để chuyên chở. FAS có nghĩa là hàng hóa phải được đặt dọc mạn tàu và FOB là hàng hóa phải được đặt dọc mạn tàu và FOB là hàng hóa phải được đặt trên tàu khi giao hàng.

Nghĩa vụ của người bán

Bốc hàng tại cơ sở của người bán

Vận chuyển nội địa tới điểm tập kết/cảng bốc

Bốc hàng lên tàu tại cảng bốc

Tổng thể nghĩa vụ của người bán

FCA cơ sở của người bán

x

EXW + Bốc hàng +Xuất khẩu

FCA điểm tập kết/ cảng bốc

x x

EXW +Vận chuyển nội địa +Xuất khẩu

FAS

x x

FCA +Vận chuyển nội địa

FOB

x x x

FAS +Bốc hàng

Bảng phân biệt các quy tắc nhóm F theo nghĩa vụ của người bán

2. Sự tương phản giữa nhóm F với nhóm D

3. Vận chuyển nội địa

Theo các điều kiện F, người bán phải thu xếp bất cứ việc vận chuyển nội địa nào để đưa hàng đến nơi quy định để giao hàng hoá cho người chuyên chở, trách nhiệm của người mua là thu xếp và thanh toán cho việc vận chuyển chính. Các quy tắc F không đề cập bất cứ điều gì về việc vận chuyển nội địa, vì không cần quy định cách người bán có thể đưa hàng hóa đến nơi giao hàng hóa cho người chuyên chở.

4. Thời gian và địa điểm giao hàng

Do người mua nhóm F chỉ định người chuyên chở hoặc con tàu đến để nhận hàng nên người mua có quyền lựa chọn thời gian và địa điểm giao hàng cụ thể trong thời hạn giao hàng và tại nơi giao hàng hoặc cảng bốc hàng quy định trong hợp đồng. Người mua thực hiện quyền lựa chọn đó bằng việc thông báo cho người bán trước khi giao hàng.

Điều này thường dẫn tới những bất lợi cho người bán. Người bán có thế gặp khó khăn trong việc chuẩn bị hàng để giao nếu thời gian giao hàng quá sớm, hoặc người bán phải chịu thêm chi phí lưu kho bãi tại nơi giao hàng nếu thời gian giao hàng quá muộn. Bên cạnh đó, nếu địa điểm giao hàng không gần với nơi tập kết hàng, người bán có thể tốn thêm chi phí, thời gian và chịu thêm rủi ro của hàng hóa trong quá trình vận chuyển nội địa để đưa hàng tới địa điểm do người mua chọn. Người bán cần giảm thiểu bất lợi cho mình bằng việc quy định càng chính xác càng tốt thời gian và địa điểm giao hàng.

5. Chỉ định phương tiện vận tải

Người bán theo một điều kiện nhóm F chỉ có thể giao hàng khi người mua đã hoàn thành nghĩa vụ chỉ định phương tiện vận tải. Do đó, việc chỉ định phương tiện vận tải trong một hợp đồng nhóm F được xem như là một điều kiện cơ bản của hợp đồng. Nếu người mua vi phạm nghĩa vụ đó, tức là người mua không chỉ định hoặc chỉ định một cách chậm trễ, hoặc phương tiện vận tải đó không nhận được hàng tại nơi quy định, người bán có quyền yêu cầu người mua phải chịu toàn bộ chi phí và rủi ro phát sinh liên quan với điều kiện là hàng đã được cá biệt hóa một cách thích hợp.

Nếu phương tiện vận tải do người mua chỉ định vì lý do nào đó không đến được địa điểm giao hàng, người mua có nghĩa vụ sắp xếp phương tiện vận tải thay thế và phải chịu chi phí cho việc này. Người mua chỉ có thể chỉ định phương tiện vận tải thay thế trong thời hạn mà hợp đồng quy định, hoặc trong thời hạn hợp lý nếu hợp đồng không quy định.

Những thiệt hại mà người bán có thể đòi bồi thường từ người mua phí lưu kho bãi, bảo quản hàng hóa, phí bảo hiểm cho đến khi tàu thay thế do người mua chỉ định đến. Nếu người mua không chỉ định được phương tiện vận tải thì thiệt hại được tính bằng mức chênh lệch giữa trị giá hợp đồng và giá của hàng hóa vào ngày vi phạm hợp đồng. Nếu hàng không xuất khẩu được và người bán phải bán hàng tại thị trường trong nước thì người mua phải bồi thường mức chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá mà người bán nhận được tại thị trường nội địa. Người bán phải khấu trừ giá trị của hàng hóa từ bất cứ thiệt hại nào mà mình phải gánh chịu. Số tiền trừ đi là bao nhiêu còn tùy thuộc vào việc hàng hóa có tiêu thụ được hay không hoặc hàng hóa có phù hợp với quy cách mà hợp đồng đã quy định hay không.

Trong trường hợp hàng hóa không thế xác định được giá trị thị trường vì hàng được sản xuất theo quy cách riêng của người mua, người bán có quyền yêu cầu người mua thanh toán toàn bộ tiền hàng bằng một điều khoản quy định tiền hàng phải được thanh toán vào một ngày cố định cho dù phương tiện vận tải phù hợp không được người mua chỉ định.

Nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng, người bán đã tỏ ra không muốn giao hàng mặc dù người mua đã đôn đốc nhiều lần, thì người mua sẽ không bắt buộc phải thuê phương tiện vận tải, vì làm như vậy sẽ vô ích và làm thiệt hại thêm cho người mua.

Ví dụ: Trong hợp đồng FOB quy định người bán phải thông báo cho người mua về việc sẵn sàng giao hàng trong thời hạn nhất định trước ngày giao hàng, nếu hết thời hạn đó mà người mua vẫn chưa nhận được thông báo này của người bán thì người mua có quyền suy đoán là người bán đã không muốn hoặc không thể giao hàng. Khi đó người mua cũng không bắt buộc phải thuê tàu và có quyền đòi bồi thường thiệt hại do người bán không giao hàng.

6. Dịch vụ bổ sung của người bán theo nhóm F

Nghĩa vụ ký hợp đồng vận tải là sự khác biệt cơ bản giữa nhóm F và nhóm C, tuy nhiên, sự khác biệt này đôi khi bị làm mờ trong thực tế vì người bán vẫn sử dụng điều kiện nhóm F với dịch vụ bổ sung cho người mua là thu xếp việc vận chuyển hàng hóa theo những điều kiện thông thường nhưng với rủi ro và chi phí của người mua.

Trong thực tế, người bán theo nhóm F có thể làm việc này khi sự lựa chọn ký hợp đồng vận tải là ít quan trọng đối với người mua. Việc này thường hay xảy ra khi chỉ có một sự lựa chọn duy nhất do địa điểm hoặc tính chất của hàng hóa hoặc khi cước phí là không thay đối với các hãng vận chuyển. Ví dụ, trong vận tải đường biển, khi giữa cảng bốc hàng và cảng đến có một tuyến tàu chợ hoạt động thường xuyên, người bán FAS hoặc FOB thường lưu khoang tàu chợ thay cho người mua.

Khi người bán thực hiện dịch vụ bổ sung này cho người mua, để thuận tiện, người bán nên thỏa thuận với người chuyên chở với điều kiện cước phí sẽ được người mua trả sau tại nơi đến. Trong trường hợp người chuyên chở đòi hỏi cước phí phải được người bán trả trước, người bán phải lập ra hai hóa đơn đòi tiền người mua, một hóa đơn về tiền hàng theo điều kiện thương mại và một hóa đơn về cước phí mà người bán đã trả. Người bán có thể tính thêm lãi suất kể từ thời điểm người bán trả cước phí cho người chuyên chở đến thời điểm người mua phải hoàn trả lại cước phí cho người bán.

Trong bất cứ trường hợp nào, người bán theo điều kiện F được yêu cầu, hoặc tự nguyện ký hợp đồng vận tải để chuyên chở hàng hóa, người mua vẫn luôn phải chịu rủi ro về các tình huống không lường trước, ví dụ như không có phương tiện vận tải hoặc phương tiện vận tải không đến đúng hạn,..

7. Phí bốc hàng và cước phí chuyên chở

Khi sử dụng FCA cho phương thức vận tải không bằng đường biển, việc phí bốc hàng đã được tính trong cước phí hay chưa liên quan đến việc giao hàng tại cơ sở của người bán hay ngoài cơ sở của người bán. Do đó, người mua FCA cần quy định trong hợp đồng vận tải điều kiện cước phí đã bao gồm hay chưa bao gồm phí bốc hàng phù hợp với nơi giao hàng.

Nếu nơi giao hàng FCA là cơ sở của người bán, người bán có nghĩa vụ bốc hàng lên phương tiện vận tải do người mua chỉ định. Vì vậy, hợp đồng vận tải cần phải quy định cước phí chưa bao gồm phí bốc hàng. Ngược lại, nếu nơi giao hàng không phải là cơ sở của người bán, người bán không có nghĩa vụ dỡ hàng từ phương tiện vận tải và bốc lên phương tiện vận tải cho người mua chỉ định. Do đó, hợp đồng vận tải cần phải quy định cước phí đã bao gồm phí bốc hàng. Những quy định như vậy để đảm bảo thống nhất với quy định trong Incoterms.

Khi người mua FCA chấp nhận giao hàng tại một địa điểm nội địa nhưng không muốn chịu thêm chi phí so với việc giao hàng tại cảng bốc hàng, như chi phí phí vận chuyển nội địa, bốc dỡ, THC,… Người mua có thể thỏa thuận giữa với người bán để chia sẻ chi phí hoặc để người bán chịu toàn bộ chi phí bằng việc quy định “người bán trả 50% chi phí vận chuyển để bốc hàng” hay “phí THC do người bán chịu”.

Phí giao hàng trong điều kiện FOB sẽ phụ thuộc vào thỏa thuận giữa người bán và người mua. Thường thì, phí giao hàng trong điều kiện FOB sẽ bao gồm chi phí vận chuyển hàng hóa từ kho hàng của người bán đến cảng xuất khẩu, chi phí bốc xếp hàng hóa lên tàu, chi phí lưu kho hàng hóa tại cảng, chi phí kiểm tra và đóng gói hàng hóa. Tuy nhiên, các chi phí này có thể thay đổi tùy thuộc vào các điều khoản cụ thể trong hợp đồng bán hàng giữa người bán và người mua.

Phí vận chuyển trong FAS thường bao gồm chi phí đóng gói, vận chuyển đến cảng và các khoản phí liên quan đến vận chuyển hàng hóa sát cạnh tàu. Tuy nhiên, phí giao hàng bên trong FAS không được bao gồm trong chi phí vận chuyển.

Do đó, nếu người mua muốn giao hàng đến địa điểm khác ngoài cảng, người mua sẽ phải chịu trách nhiệm và chi phí cho việc vận chuyển hàng hóa từ cảng tàu đến địa điểm của mình.

Trong vận tải đường biển hoặc đường thủy, hàng hóa có thể được chuyên chở bằng tàu chợ (Liner)[2] hoặc theo hợp đồng thuê tàu chuyến (C/P). Nếu hàng hóa được vận chuyển bằng tàu chợ, chi phí bốc và dỡ hàng đã được đưa vào cước phí. Trong khi đó nếu hàng hóa được vận chuyển theo hợp đồng thuê tàu chuyển, phí bốc và dỡ hàng đã được tính trong cước phí chuyên chở hay chưa phụ thuộc vào điều kiện cước phí trong hợp đồng thuê tàu chuyến. Phí bốc hàng có được tính trong cước phí hay không sẽ liên quan đến lựa chọn điều kiện FAS hay FOB phù hợp hơn.

Nếu người mua dự định vận chuyển hàng theo các tuyến tàu chợ chạy định kỳ hoặc theo hợp đồng thuê tàu chuyến (C/P) ký kết theo điều kiện tàu chợ (Liner Terms) hoặc Phí bốc hàng theo điều kiện tàu chợ (Liner In). Trong những trường hợp này, phí bốc hàng đã được đưa vào cước phí, mà người mua là người trả cước phí, do đó sử dụng FAS phù hợp hơn FOB.

Trường hợp người mua ký hợp đồng thuê tàu chuyến (C/P) để chuyên chở hàng theo điều kiện Miễn phí bốc hàng (FI), Miễn phí bốc và san xếp hàng (FIST) hoặc Miễn phí bốc và dỡ hàng (FIO), người chuyên chở được miễn phí bốc hàng tại cảng bốc nên người bán phải chịu phí bốc hàng. Khi đó nên lựa chọn FOB phù hợp hơn FAS.

Phí bốc hàng

Vận chuyển

Sử dụng điều kiện thương mại

Tính trong cước phí Mọi phương thức FCA giao ngoài cơ sở của người bán
Tàu chợ

Hợp đồng thuê tàu chuyến Liner Terms/Liner In

FOB + người mua chịu phí bốc hàng (loading charges for buyer’s account)

Không tính trong cước phí Mọi phương thức FCA giao tại cơ sở của người bán
Hợp đồng thuê tàu chuyến FI/FIST/FIO

FAS + người bán chịu phí bốc hàng (loading charges for seller’s account)

Quy tắc nhóm F và phí bốc hàng được/khôngđược tính trong cước phí

8. Yêu cầu an ninh
Mặc dù người bán theo nhóm F không có nghĩa vụ ký hợp đồng vận tải, người bán vẫn phải đáp ứng bất cứ yêu cầu ninh nào liên quan đến vận chuyển mà người mua thu xếp, với điều kiện người mua đã cung cấp thông tin cho người bán. Việc cung cấp thông tin có thể bằng những quy định trong hợp đồng hoặc bằng thông báo của người mua cho người bán trước khi giao hàng. Nếu người mua cung cấp thông tin cho người bán bằng cách gửi thông báo, người bán cũng nên quy định trong hợp đồng về nghĩa vụ thông báo này, để đảm bảo có thể đáp ứng kịp thời những yêu cầu an ninh đó.

9. Chứng từ giao hàng và Chứng từ vận tải

Người bán nhóm F phải chịu phí tôn cung cấp cho người mua bằng chứng thường lệ về việc giao hàng. Bằng chứng thường lệ đó có thể không phải là chứng từ vận tải, mà chỉ là chứng từ xác nhận đã nhận hàng từ người bán. Nếu người mua yêu cầu người bán phải cung cấp chứng từ vận tải, người bán có thể giúp người mua đổi bằng chứng thường lệ đó lấy chứng từ vận tải. Tuy nhiên, chi phí và rủi ro để lấy được chứng từ vận tải do người mua chịu.

Mặc dù theo quy tắc nhóm F, người mua phải thu xếp và trả cước phí chuyên chở (nghĩa là người mua ký hợp đồng trực tiếp với người chuyên chở), người chuyên chở vẫn có thể phát hành chứng từ vận tải cho người bán để chứng minh rằng người bán đã giao hàng cho người chuyên chở. Trong trường hợp này, chứng từ vận tải sẽ vừa là bằng chứng của hợp đồng vận tải và vừa là bằng chứng về việc giao hàng của người ban cho người chuyên chở.

Tuy nhiên, nếu người bán không thể lấy được chứng từ vận tải từ người chuyên chở, thì người bán chỉ cần lấy được bất cứ bằng chứng nào để chứng minh là mình đã giao hàng cho người chuyên chở. Vì đứng ở góc độ pháp lý, chính người mua (người ký hợp đồng với người chuyên chở) là người chịu trách nhiệm lấy được chứng từ vận tải từ người chuyên chở để người mua có thể nhận hàng và khiếu nại về hàng hóa tại cảng đến, chứ không phải là người bán. Trong nhiều trường hợp, người chuyên chở không phát hành chứng từ vận tải với lý do người mua chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với họ theo hợp đồng vận tải (chẳng hạn như chưa trả một phần hoặc toàn bộ cước phí theo như hợp đồng vận tải), những rủi ro đó người mua phải gánh chịu.

10. Nghĩa vụ thông báo

Người mua theo nhóm F được quyền lựa chọn người chuyên chở cũng như thời gian, địa điểm giao hàng, trừ khi người mua đã ủy quyền cho người bán thu xếp việc vận chuyển. Nếu hợp đồng theo nhóm F không có quy định về nghĩa vụ thông báo của người mua trước khi giao hàng, điều này gây cho người bán những khó khăn nhất định.

Trong thời hạn giao hàng được quy định trong hợp đồng, vào bất kỳ lúc nào người mua cũng có quyền yêu cầu người bán phải giao hàng nếu như người mua đã chỉ định phương tiện vận tải đến nhận hàng. Do đó trong thời hạn giao hàng mà hợp đồng qui định, người bán phải luôn sẵn sàng giao hàng bất cứ lúc nào khi nhận được thông báo của người mua về tên phương tiện vận tải, thời gian và địa điểm giao hàng.

Vì vậy, trong hợp đồng người bán cân quy định rõ ràng thời hạn người mua phải gửi cho người bán thông báo về phương tiện vận tải đã chỉ định, để người bán có thể chuẩn hi hàng hóa. Nghĩa vụ gửi thông báo như vậy được xem là một điều kiện cơ bản, do đó nếu người mua vi phạm, người bán có quyền từ chối nghĩa vụ giao hàng của mình.

Trường hợp người mua đã thông báo địa điểm giao hàng nhưng sau đó muốn thay đổi sang địa điểm khác, người bán không có nghĩa vụ phải trả chi phí di chuyển hàng hóa đến một địa điểm giao hàng mới, miễn là người bán đã hành động phù hợp với các chi thị đầu tiên của người mua và có quyền cho rằng thông báo mới của người mua đã chậm trễ[3].

Trong thực tiễn sử dụng nhóm F, người bán có thể thu xếp việc vận chuyển thay cho người mua. Nếu các bên thỏa thuận nghĩa vụ bổ sung của người bán như vậy, hợp đồng cần qui định nghĩa vụ thông báo của người mua cho người bán những thông tin cần thiết khi người mua muốn nhờ người bán ký hợp đồng vận tải. Tuy nhiên người bán có quyền từ chối việc này và phải thông báo sớm cho người mua biết. Vì vậy trong hợp đồng nên quy định thời hạn thông báo này để người mua có thể kịp thu xếp việc vận chuyển hàng hóa.

Người bán theo nhóm F phải thông báo cho người mua du sớm những chi tiết về việc giao hàng, trên cơ sở đó người mua có thể tiến hành mua bảo hiểm cho hàng hoá để tránh những tổn thất về hàng hoá trong quá trình chuyên chở. Trong Incoterms không chỉ rõ hậu quả trong trường hợp không có thông báo từ phía người bán, do đó người mua cần quy định nghĩa vụ này của người bán trong hợp đồng mua bán. Khi đó, việc người bán không thông báo là một sự vi phạm hợp đồng, và người bán có thể bị quy trách nhiệm theo như luật áp dụng đối với hợp đồng quy định.

Khi mua bán hàng hóa với số lượng lớn, trong hợp đồng thường quy định số lượng hàng hóa có dung sai. Thông thường, người mua giành được quyền chọn dung sai về số lượng với lý do người mua chịu trách nhiệm và chi phí thuê phương tiện vận tải để chuyên chở hàng hóa. Nếu không có quy định về thông báo của người mua về số lượng này cho người bán đủ sớm, người bán hoàn toàn bị động trong việc chuẩn bị số lượng hàng hóa để giao.

Nếu trong hợp đồng quy định người bán có quyền chọn dung sai về số lượng hàng hóa, người mua cần quy định trong hợp đồng mua bán về nghĩa vụ thông báo sẵn sàng giao hàng của người bán đối với số lượng hàng mà người bán quyết định giao. Trên cơ sở đó người mua chỉ định phương tiện vận tải thích hợp để chuyên chở. Để ràng buộc nghĩa vụ thông báo này của người bán, người mua nên quy định nếu người bán vi phạm nghĩa vụ thông báo, người bán phải chịu mọi rủi ro về mất mát hay hư hỏng hàng hóa và mọi chi phí phát sinh.

11. “Cơ sở của người bán” và “Phương tiện vận tải của người bán” theo FCA

Khái niệm “Cơ sở của người bán” trong FCA giống như trong EXW, có thể là bất cứ nơi nào dưới sự kiểm soát của người bán.[4] Tuy nhiên có thể xảy ra trường hợp, người bán coi điểm tập kết được người bán ký hợp đồng lưu giữ hàng hóa (chẳng hạn kho, bãi chưa hàng) không phải là cơ sở của người bán nên người bán từ chối nghĩa vụ bốc hàng hóa lên phương tiện vận chuyển của người mua. Do đó, trong hợp đồng mua bán cần xác định rõ nơi giao hàng có phải là cơ sở của người bán hay không để phân chia nghĩa vụ bốc hàng lên phương tiện vận tải do người mua chỉ định thuộc về người bán hay người mua.

“Phương tiện vận tải của người bán” (seller’s mean of transport) có thể là một phương tiện vận tải của người chuyên chở mà người bán ký hợp đồng chứ không nhất thiết phải là phương tiện riêng của người bán.[5] Vì vậy, nếu nơi giao hàng đã được xác định không phải là cơ sở của người bán, người bán không có nghĩa vụ dỡ hàng ra khỏis bất cứ phương tiện vận tải nào (do người bán thuê hay của người bán) chở tới nơi giao hàng.

12. Điểm giao hàng theo FAS

Điều kiện FAS chi thích hợp khi việc giao hàng cho người chuyên chở được thực hiện ngay sát mạn tàu tại cảng bốc hàng. Hàng hóa được coi là “dọc mạn tàu” khi được đặt:

– Trên cầu cảng hoặc trên bất cứ phương tiện vận tải nào khác tại cầu cảng, nếu con tàu có thể cập vào cầu cảng, hoặc

– Trên sà lan hay trên một con tàu khác có thể áp vào mạn con tàu (mạn kế mạn- board and board) do người mua chỉ định, nếu con tàu neo đậu ở cầu cảng hay không ỏ cầu cảng.

Trong bất cứ trường hợp nào, hàng hóa phải được giao tại điểm sát mạn tàu để cần cầu của cảng hay của tàu hay của bất cứ người bốc hàng nào có thể đưa được hàng lên tàu.

Trong trường hợp hàng hóa được vận chuyển bằng đường bộ hoặc đường sắt tới sát mạn tàu tại cảng bốc, hàng hóa được giao trên xe tải hoặc toa xe sẵn sàng được dỡ để bốc lên tàu. Có người cho rằng việc sử dụng FCA giao tại cầu cảng cũng có thể thích hợp. Tuy nhiên, FAS thích hợp hơn FCA vì phương thức vận tải chuyên chở hàng hóa thực sự là vận tải biển hoặc thủy nội địa.

Đối với loại hàng siêu trường- siêu trọng (đôi khi được gọi là “hàng dự án”), ví dụ như các kết cấu lớn trong công nghiệp dầu khí, máy khai thác mỏ, nhà máy phát điện, đòi hỏi những yêu cầu đặc biệt trong giao nhận vận chuyển. Nếu người bán không muốn chịu trách nhiệm về rủi ro trong quá trình bốc hàng lên tàu, nên lựa chọn FAS thay vì FOB.3º Các bên mua bán, cho dù sử dụng FAS hay FOB cần sử dụng dịch vụ của những công ty logistic chuyên về những loại “hàng dự án” này.

Nếu việc giao hàng được thực hiện ở địa điểm khác không nằm sát mạn tàu, sử dụng điều kiện FCA thích hợp hơn. Trong trường hợp này, người chuyên chở đại diện cho người mua để nhận hàng và chịu trách nhiệm về hàng hóa không còn là người chuyên chở đường biển mà có thể là người chuyên chở đường bộ, đường sắt, đường không, đa phương thức hay đơn giản chỉ là người giao nhận ở nước người bán.

13. Di chuyển rủi ro theo FOB

Theo truyền thống, điểm chuyển rủi ro từ người bán sang người mua trong điều kiện FOB là lan can tàu tại cảng bốc hàng. Việc lấy lan can tàu trong điều kiện FOB là điểm để phân chia rủi ro giữa người bán và người mua đã bị chỉ trihs là không phản ánh những gì thực sự diễn ra tại các cảng. Rủi ro xảy ra đối với hàng hóa trong quá trình bốc hàng qua lan can tàu sẽ được phân chia như thế nào giữa người bán và người mua? Phải chăng là nếu hàng rơi ra ngoài con tàu (tức chưa qua lan can tàu) sẽ do người bán chịu, còn nếu rơi vào trong con tàu (tức đã qua lan can tàu) sẽ do người mua chịu?

Trong vụ tranh chấp giữa Pyrene Co Ltd và Scindia Steam Navigation Co từ năm 1954 của một tòa án Anh, một phán xét đã nói: “Chỉ có luật sư nào sốt sắng nhất mới có thể bằng lòng ngắm cảnh các trách nhiệm đang chuyển từ bên nọ sang bên kia một cách thô thiển, trong khi khối hàng đang di động trên đỉnh cột cầu qua đường vuông góc tưởng tượng dựng lên từ lan can tàu”[6].

Trong những tình huống như vậy, rủi ro thường sẽ thuộc về bên phải trả phí bốc hàng và phải thuê người thực hiện dịch vụ bốc hàng lên tàu. Điều này còn tùy thuộc vào tập quán đặc thù của ngành hàng và của cảng bốc hàng. Ví dụ, tại cảng Stockholm, nếu những sản phẩm gỗ được bán theo điều kiện “FOB Stockholm”, người mua phải chịu phí bốc hàng lên tàu; theo thông lệ buôn bán này giao hàng FOB được biến đổi thành giao hàng FAS.? Nếu cũng không có tập quán riêng biệt nào liên quan, người bán sẽ phải chịu theo đúng nghĩa của cụm từ “Free On Board” (Giao Trên Tàu).

Kể từ Incoterms 2010, cụm từ “passed the ship’s (qua lan can tàu) đã được thay bằng “on board the vessel” (trên tàu) để thống nhất giữa việc phân chia rủi ro và chi phí. Nếu hàng hóa bị rơi trong quá trình bốc hàng và nằm boong gây thiệt hại, điều này sẽ được coi là rủi ro cho người bán, vì việc đặt hàng hóa lên tàu không dự tính một quy trình dẫn đến thiệt hại. Tuy nhiên, nếu hàng hóa được coi là đã “trên tàu”, rủi ro sẽ do người mua chịu[7]. Tuy nhiên, cũng như trước đây, điểm cụ thể phân chia rủi ro còn phụ thuộc vào tập quán và thực tiễn trong ngành buôn bán và tại cảng bốc hàng.

Nếu cả hai bên đều biết về tập quán tại cảng bốc hàng thì không có khó khăn gì xảy ra. Nhưng thường thì người mua không biết về tập quán của cảng bốc hàng ở nước người bán và chỉ sau đó mới phát hiện ra những tập quán này là bất lợi cho mình. Vì lý do đó, trước khi ký hợp đồng mua bán, người mua FOB cần phải tìm hiểu rõ xem cảng bốc hàng có tập quán riêng biệt nào hay không, nếu có thì cần xem xét vấn đề này khi đàm phán hợp đồng mua bán về giá cả hàng hóa.

14. Thay thế FOB bằng FCA

Như đã lưu ý, nếu việc giao hàng bằng container kể cả đường biển và giao hàng trong các phương thức vận tải khác không phải đường biển, FOB không phù hợp mà phải thay thế bằng FCA. Chỉ nên sử dụng FOB trong những trường hợp giao hàng bằng đường biển không sử dụng container bằng cách:

(a) được bốc bằng cần cẩu lên trên tàu, hoặc

(b) được bơm lên tàu qua các vòi bơm đối với hàng lỏng,

hoặc

(c) được truyền từ các silo (bồn chứa) lên tàu đối với số lượng lớn hàng rời.

Trong tất cả các trường hợp khác, FOB không nên được sử dụng mà nên thay bằng FCA ghi kèm nơi hàng hóa được giao để vận chuyển.

15. Thông quan quá cảnh và nhập khẩu

Để nhập khẩu hàng hóa hoặc để quá cảnh một nước thứ ba (nếu cần thiết) người mua cần phải có những chứng từ nhất định để hoàn thành thủ tục theo quy định của nước nhập khẩu và nước quá cảnh. Những chứng từ đó thông thường là giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), hóa đơn lãnh sự (CI), …

Nếu người mua yêu cầu, người bán sẽ giúp đỡ người mua để xin được những chứng từ hoặc thông báo điện tử tương đương đó được ký phát hoặc chuyển tại nước gửi hàng hoặc nước xuất xứ. Theo Incoterms chi phí để lấy được các chứng từ này người mua phải chịu. Tuy nhiên vấn đề này cũng có thể gây tranh chấp, vì người mua có thể cho rằng những phí tổn và chi phí này là những chi phí trước khi gửi hàng (pre- shipment charges) và người bán có nghĩa vụ cung cấp các chứng từ đó trong bộ chứng từ thanh toán, do đó sẽ phải do người bán chịu. Để tránh tranh chấp, các bên nên qui định nghĩa vụ này trong hợp đồng, và người bán có thể tính chi phí này vào trong giá FOB của hợp đồng.

Nghĩa vụ thông quan xuất khẩu theo FAS

Incoterms 1990, cũng như các Incoterms trước đó, quy định người mua FAS có nghĩa vụ thông quan xuất khẩu vì giao hàng dọc mạn tàu được coi là giao hàng trong nước người bán (lan can tàu tạo thành một ranh giới hải quan tưởng tượng). Tuy nhiên, FAS được thay đổi trong Incoterms 2000, theo đó người bán có nghĩa vụ thông quan xuất khẩu, điều này phù hợp với thực tiễn thương mại yêu cầu bên cư trú ở nước xuất khẩu phải làm thủ tục thông quan xuất khẩu (ngoại trừ EXW, quy định tối thiểu nghĩa vụ cho người bán). Mặc dù vậy, các bên vẫn có thể thỏa thuận nghĩa vụ thông quan xuất khẩu thuộc về người mua bằng một quy định rõ ràng trong hợp đồng hoặc bằng cách dẫn chiếu đến FAS của Incoterms 1900 trong hợp đồng để đòi hỏi người mua phải thông quan xuất khẩu cho hàng hóa.

Kết luận với nhóm F

– Hợp đồng cần làm rõ nơi giao hàng theo FCA có phải là cơ sở của người bán hay không.

– Sử dụng FCA thay cho FAS và FOB khi giao hàng trong container hoặc bằng các phương thức vận tải không phải đường biển.

– Người mua FOB cần tìm hiểu tập quán trong ngành buôn bán và tại cảng bốc hàng.

– Người bán cần cá biệt hóa hàng hóa trước khi giao hàng.

DANH MỤC TÀI LIỆU:


[1] Tô Bình Minh, Incoterms 2020 Giải thích và hướng dẫn sử dụng (2020) Trang 210-228

[2] Còn gọi là tàu định kỳ hoặc chuyên tuyến

[3] ICC, General guidance on selected questions on the Incoterm 2010 rules, 2011

[4] ICC, General guidance on selected questions on the Incoterm 2010 rules, September 2011

[5] ICC, General guidance on selected questions on the Incoterm 2010 rules, September 2011

[6] Clive M.Schmitthoff, The Law and Practice of International Trade, Sweet & Maxwell,2007

[7] ICC, General guidance on selected questions on the Incoterm 2010 rules, September 2011

……………

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan