NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Long có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự trên.
Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của nguyên đơn Công ty X rút một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo về việc công nhận 03 sơmirơmóc mang biển kiểm soát 64R-001.10; 64R-000.86 đăng ký ngày 03/12/2020; 64R-000.64 thuộc quyền sở hữu của Công ty Q để đảm bảo trả nợ cho công ty X theo bản án số 10/2020/KDTM-ST ngày 29/9/2020 của Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Đại diện bị đơn Công ty Q có ông Trần Ngọc T đồng ý việc rút yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng trên của người đại diện hợp pháp nguyên đơn. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 299, khoản 4 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hủy một phần bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với phần rút yêu cầu trên của nguyên đơn.
[2] Theo bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 10/2020/KDTM-ST ngày 29/9/2020 của Toà án nhân dân thành phố V có hiệu lực pháp luật thì Công ty Q do ông Trần Văn H1 là người đại diện theo pháp luật có nghĩa vụ trả cho Công ty X số tiền vốn, lãi bằng 533.051.000 đồng.
Sau đó, Công ty X có đơn yêu cầu thi hành bản án số 10/2020/KDTM-ST ngày 29/9/2020 của Toà án nhân dân thành phố V và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V ban hành Quyết định Thi hành án số 275/QĐ-CCTHADS ngày 11/11/2020. Tại thời điểm này người phải thi hành án Công ty Q đứng tên chủ sở hữu các tài sản gồm: 03 sơmirơmóc mang biển kiểm soát 64R-001.10; 64R-000.86 và 64R-000.64. Tuy nhiên, ngày 01/12/2020 Công ty Q do ông Trần Văn H1 đại diện đã ký hợp đồng mua bán 03 sơmirơmóc trên bằng số tiền 235.763.906 đồng cho Công ty H. Theo hợp đồng mua bán xe ngày 01/12/2020 thể hiện bên mua là Công ty H có ông Trần Văn D – chức vụ giám đốc đại diện. Tuy nhiên, theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và xác nhận số 116/ĐKKD ngày 16/12/2021 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh V thì thời điểm ký kết hợp đồng mua bán trên Công ty – do ông Trần Văn H1 đại diện theo pháp luật.
Mặt khác, Công ty Q thừa nhận số tiền 235.763.906 đồng đã chuyển nhượng 03 sơmirơmóc thì Công ty Q không sử dụng để thi hành bản án số 10/2020/KDTM-ST ngày 29/9/2020 của Toà án nhân dân thành phố V cho người được thi hành án là Công ty X theo Quyết định Thi hành án số 275/QĐ-CCTHADS ngày 11/11/2020. Công ty sử dụng số tiền trên để chi trả lương cho công nhân và các việc khác của công ty.
Tại biên bản về việc xác minh điều kiện thi hành án ngày 30/8/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V thể hiện Công ty Q không còn hoạt động kinh doanh và tại địa điểm đăng ký kinh doanh của công ty không còn tài sản gì để thi hành án. Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp bị đơn Công ty Q cho rằng Công ty Q có nhiều tài sản khác để đảm bảo thi hành án nhưng phía bị đơn không cung cấp chứng cứ chứng minh các tài sản hiện có của Công ty Q.
Theo Thông báo số 99/TB-THADS ngày 19/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V gửi cho người được thi hành án là Công ty X và người phải thi hành án là Công ty Q, hai bên có quyền thỏa thuận phân chia tài sản và quyền khởi kiện tại tòa án tranh chấp đối với tài sản là 03 xe sơmirơmóc mang biển kiểm soát 64R-001.10; 64R-000.86 và 64R-000.64. Tại Công văn số 558/CCTHADS-CV ngày 17/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, căn cứ theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014, năm 2022 và Nghị định số 33/2020/NĐ-CPngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự thì hợp đồng chuyển nhượng ngày 01/12/2020 giữa Công ty Q với Công ty H đối với các tài sản 03 sơmirơmóc mang biển kiểm soát 64R 001.10; 64R-000.86 và 64R-000.64 là vi phạm các điều khoản theo quy định của pháp luật.
Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự khoản 11 Điều 1 Nghị định 33/2020/NĐ-CPngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự thì hợp đồng mua bán lập ngày 01/12/2020 giữa Công ty Q với Công ty H đối với các tài sản 03 sơmirơmóc mang biển kiểm soát 64R-001.10; 64R-000.86 và 64R-000.64 là giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án và thuộc trường hợp giao dịch về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng toàn bộ khoản tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.
[3] Căn cứ Điều 131 Bộ Luật Dân sự 2015 thì hợp đồng mua bán lập ngày 01/12/2020 giữa Công ty Q với Công ty H đối với các tài sản 03 sơmirơmóc mang biển kiểm soát 64R-001.10; 64R-000.86 và 64R-000.64 là giao dịch dân sự nhằm tẩu tán tài sản nên bị vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Tuy nhiên, trong vụ án này bị đơn Công ty Q không có yêu cầu phản tố và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty H không có yêu cầu độc lập và tại phiên tòa, đại diện hợp pháp bị đơn không yêu bồi thường thiệt hại, không yêu cầu xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu trong trường hợp tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng mua bán lập ngày 01/12/2020. Do đó, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Vô hiệu hợp đồng mua bán tài sản ngày 01/12/2020 giữa Công ty Q với Công ty H đối với các tài sản 03 sơmirơmóc mang biển kiểm soát 64R-001.10; 64R-000.86 và 64R-000.64.
Các đương sự có quyền khởi kiện vụ án khác yêu cầu xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật
[4] Án phí dân sự: Bị đơn Công ty Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 300.000 đồng và nguyên đơn Công ty X không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho nguyên đơn Công ty X số tiền 600.000 đồng, tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm theo các biên lai thu số 0001834 ngày 03/02/2023 và số 0006596 ngày 05/02/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
[Nguồn: Bản án số 143/2024/DS-PT ngày 16/7/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 143/2024/DS-PT
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn