Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Yêu cầu mới của đương sự sau khi có BA sơ thẩm chưa được xem xét, nghị án tại phiên tòa sơ thẩm nhưng Chánh án Tòa án phúc thẩm ra QĐ sửa đổi, bổ sung BA là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng tại Đ264 và Đ268 BLTTDS 2015

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Yêu cầu mới của đương sự sau khi có BA sơ thẩm chưa được xem xét, nghị án tại phiên tòa sơ thẩm nhưng Chánh án Tòa án phúc thẩm ra QĐ sửa đổi, bổ sung BA là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng tại Đ264 và Đ268 BLTTDS 2015

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về số tiền gốc và tiền lãi (trong hạn, quá hạn):

Ngân hàng  khởi  kiện  yêu  cầu  Công ty  L thanh  toán  số  tiền  nợ gốc 7.700.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn theo các Khế ước nhận nợ của Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số VTA.DN.11141111 ngày 14/11/2011 (sau đây viết tắt là Hợp đồng số 11141111) và Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức số VTA.DN.12041110  ngày  11/11/2010  (sau  đây  viết  tắt  là  Hợp  đồng  số 11141110). Công ty L xác nhận về số nợ gốc như Ngân hàng yêu cầu và số tiền lãi Công ty có trách nhiệm thanh toán. Sau khi Ngân hàng khởi kiện, Công ty L thanh toán 1.600.000.000 đồng tiền gốc (thanh toán xong 1.200.000.000 đồng tiền gốc của Hợp đồng số 11141111; thanh toán 400.000.000 đồng tiền gốc của Hợp đồng số 12041110. Tại phiên tòa sơ thẩm, Công ty L vắng mặt, Ngân hàng yêu cầu Công ty L thanh toán 6.100.000.000 đồng nợ gốc còn lại của Hợp đồng số 12041110, lãi trong hạn 410.391.978 đồng, lãi quá hạn 14.670.297.440 đồng của cả 02 Hợp đồng cấp hạn mức tín dụng nêu trên. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì: Các khế ước nhận nợ của các Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức mà Ngân hàng khởi kiện nêu trên quy định lãi suất cho vay được điều chỉnh 3 tháng/lần. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập Hợp đồng số 12041110 và bảng chi tiết tính lãi được điều chỉnh của từng khế ước nhận nợ qua từng đợt điều chỉnh, căn cứ của việc điều chỉnh, mà đã giải quyết vụ án là vi phạm quy định tại Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự về xác minh, thu thập chứng cứ.

[2] Về việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất tại thửa số 634, tờ bản đồ 142, Khu phố 4, phường BC, quận T (nay là thành phố T), Thành phố H:

Theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba số VTA.BĐDN.11011010 ngày 07/10/2010 được các bên ký tại Phòng Công chứng số 03, Thành phố H và đăng ký thế chấp tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất quận T ngày 07/10/2010 thì tài sản bảo đảm là thửa đất số 634 thuộc quyền sử dụng, quyền sở hữu của ông Phan Văn L, có giá trị 7.468.000.000 đồng; được ông L thế chấp cho Ngân hàng để bảo đảm toàn bộ các nghĩa vụ trả nợ của Công ty L với Ngân hàng (gồm nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, phí, các khoản phải trả khác) theo Hợp đồng số 11011010 và tất cả các hợp đồng sửa đổi, bổ sung, phụ lục hợp đồng, khế ước nhận nợ, các cam kết của Công ty L khi được Ngân hàng cấp tín dụng dưới hình thức khác (chiết khấu, cấp thẻ tín dụng, mở L/C…) và các cam kết khác của Công ty L với Ngân hàng phát sinh trước hoặc sau thời điểm ký Hợp đồng số 11011010 này. Như vậy, hợp đồng thế chấp nêu trên không bảo đảm cho các khoản vay theo các Hợp đồng cấp tín dụng hạn mức mà Ngân hàng khởi kiện.

Các tài liệu chứng cứ do Ngân hàng cung cấp không thể hiện việc Ngân hàng giải ngân theo Hợp đồng số 11011010. Ngân hàng cũng chưa khởi kiện đối với hợp đồng này, tức là nghĩa vụ bảo đảm của người thứ ba theo Hợp đồng thế chấp số VTA.BĐDN.11011010 ngày 07/10/2010 chưa phát sinh, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại quyết định xử lý vay của tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp nói trên để thanh toán cho khoản Hợp đồng số 12041110 là không đúng. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập Hợp đồng số 12041110 nên không có cơ sở để xác định khoản vay theo hợp đồng tín dụng này có được bảo đảm bằng tài sản của ông L đã thế chấp cho Ngân hàng hay không. Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập, xác minh, đánh giá đầy đủ và khách quan các tài liệu, chứng cứ của vụ án theo quy định của pháp luật nhưng đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở.

Về phạm vi bảo đảm, theo Điều 4 Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba số VTA.BĐDN.11011010 ngày 07/10/2010 thì tổng giá trị nghĩa vụ được bảo đảm đối với các khoản nợ gốc (chưa kể lãi, phí, các khoản phải trả khác) tại một thời điểm không vượt quá 6.500.000.000 đồng. Tòa án tuyên xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng thửa đất số 634 trong trường hợp Công ty L và những người bảo lãnh không thanh toán hoặc thanh toán không hết số tiền nợ lãi cho Ngân hàng cũng là vượt quá phạm vi bảo đảm.

[3] Theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thì thửa đất số 634 là tài sản chung của vợ chồng bà T2 và ông VH; Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định thực tế này. Tài sản trên đất là 31 phòng trọ do bà T2 xây dựng và cho thuê. Trước khi thế chấp cho Ngân hàng, ngày 02/9/2010, ông L có văn bản xác nhận nhà và đất tại địa chỉ 93 đường 20, phường BC, quận T, Thành phố H là của bà T2, đồng ý cho ông đứng tên trên giấy chứng nhận trong thời gian 01 năm, để giúp ông mở văn phòng làm việc; đồng thời cam kết không tự ý tặng cho, sang nhượng, cầm cố, bảo lãnh hoặc thế chấp giấy tờ nhà đất cho người nào khác dưới bất cứ hình thức nào khi chưa có sự đồng ý của bà T2 bằng văn bản; sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh và mở văn phòng sẽ ký lại hợp đồng tặng cho để trả lại giấy tờ nhà đất cho bà T2. Hồ sơ vụ án không có chứng cứ về việc bà T2 và ông L cấu kết để ông L chiếm đoạt tiền vay của Ngân hàng. Mặt khác, tài sản này là đất và tài sản trên đất thuộc di sản thừa kế, bà T2 tự ý cho ông L đứng tên không có sự đồng ý của các thừa kế của ông VH là vi phạm. Ông L được bà T2 giúp cho đứng tên trên giấy tờ để mở văn phòng làm việc và cam kết không được phép dịch chuyển tài sản này nhưng đã tự ý định đoạt là có dấu hiệu về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cần được xem xét theo quy định của pháp luật.

[4]  Về  tố  tụng:  Theo  Bản  án  kinh  doanh,  thương  mại  sơ  thẩm  số 07/2018/KDTM-ST ngày 28/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh B-V thì tiền lãi quá hạn Công ty L và các ông Nguyễn Ngọc TH, Phan Văn L, Nguyễn Tuấn A1 và Nguyễn Duy L1 có trách nhiệm liên đới trả cho Ngân hàng là 14.670.297.440 đồng. Tuy nhiên, sau khi Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 07/2018/KDTM-ST có hiệu lực pháp luật, Ngân hàng có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố V đính chính điều chỉnh phần tiền lãi quá hạn là 12.409.790.868 đồng với lý do nhằm giảm thiệt hại cho khách hàng và phản ánh đúng số tiền mà khách hàng còn nợ Ngân hàng tính đến ngày 22/6/2018 và cam đoan chịu trách nhiệm về số liệu cung cấp này. Đây là yêu cầu mới của đương sự sau khi đã có bản án sơ thẩm, chưa được Hội đồng xét xử xem xét và nghị án tại phiên tòa sơ thẩm, nhưng Chánh án Tòa án nhân dân thành phố V ra Quyết định số 01/2019/QĐ-SCBSBA ngày 26/7/2019 sửa chữa, bổ sung bản án theo đề nghị nói trên của Ngân hàng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được quy định tại Điều 264 và Điều 268 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; đồng thời, dẫn đến sai sót trong tính án phí mà đương sự phải chịu.

Ngoài ra, việc Chánh án Tòa án nhân dân thành phố V ban hành Công văn số 438/CV-TA ngày 09/8/2019 để giải thích bản án, trong đó có bổ sung thêm nội dung 48,9 m2  đất nằm ngoài GCNQSDĐ số BD 200773 và tài sản gắn liền với diện tích đất này không phải là tài sản bảo đảm theo nội dung bản án đã tuyên, trong khi nội dung này chưa được Hội đồng xét xử xem xét và nghị án tại phiên tòa sơ thẩm cũng là vi phạm các quy định nêu trên và Điều 468 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Mặt khác, tại đơn đề nghị giám đốc thẩm, bà T2 có đề cập đến 02 Quyết định sửa chữa, bổ sung đối với Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 07/2018/KDTM-ST ngày 28/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh B- V, cụ thể là Quyết định số 01/2019 ngày 26/7/2019 và Quyết định số 02/2019 ngày 11/9/2019 nhưng hồ sơ vụ án chỉ có Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2019/QĐ-SCBSBA ngày 26/7/2019. Mặc dù, phần ghi nơi nhận tại Quyết định này, có gửi các đương sự, nhưng không có chứng cứ thể hiện việc Tòa án đã giao cho các đương sự cũng là thiếu sót.

[Nguồn: Quyết định GĐT số 29/2023/KDTM-GĐT ngày 20/9/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định GĐT số: 29/2023/KDTM-GĐT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan