NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về pháp luật tố tụng
[1.1] Căn cứ khoản 11 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Xét, đơn khởi kiện của ông T, bà H có căn cứ để xác định đây là tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Xét, VP TP có địa chỉ trụ sở tại Quận 1 nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 1.
[1.2] Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Xét, bà Nguyễn Thị Y có đơn xin được xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà Y theo quy định.
[2] Về pháp luật nội dung
Xét, yêu cầu khởi kiện của ông T, bà H, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Xét, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất CA 864129, số vào sổ cấp GCN CH01376 ngày 17 tháng 6 năm 2015 do Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp cho ông T, bà H đứng tên chủ sở hữu nên có cơ sở để khẳng định căn nhà nêu trên là tài sản hợp pháp của ông T, bà H theo quy định tại Điều 164 Bộ luật Dân sự.
[2.2] Xét, tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn khác liền với đất căn nhà số LVS, Phường 11, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh do VP TP, công chứng số 012029, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD ngày 15 tháng 7 năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.2.1] Xét, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số 012029/HĐ-CN ngày 15 tháng 7 năm 2015 ông T, bà H là bên chuyển nhượng căn nhà số LVS, Phường 11, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh cho bên nhận chuyển nhượng ông D là tuân thủ về hình thức hợp đồng được quy định tại Điều 450 Bộ luật Dân sự.
[2.2.2] Xét, lời khai của ông T, bà H căn nhà số LVS, Phường 11, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh do ông bà là người trực tiếp quản lý, sử dụng. Ông T, bà H không bán nhà cho ông D, không biết ông D là ai nên có cơ sở để khẳng định việc định đoạt tài sản căn nhà trên theo hợp đồng chuyển nhượng ngày 15 tháng 7 năm 2015 không phải là ý chí của chủ sở hữu ông T, bà H là chưa phù hợp theo quy định tại Điều 192 Bộ luật Dân sự.
[2.2.3] Xét, lời khai của ông D, người chuyển nhượng căn nhà trên theo hợp đồng chuyển nhượng ngày 15 tháng 7 năm 2015 có tên ông PVT và bà NTPH không phải là ông T, bà H có mặt tại phiên tòa. Khi ký nhận chuyển nhượng, bên chuyển nhượng là ông T, bà H đã ký nhận đủ số tiền 1.500.000.000 đồng. Khi nhận chuyển nhượng căn nhà trên, ông D đến xem nhà, hỏi ý kiến cơ quan có thẩm quyền địa phương về tình trạng pháp lý căn nhà nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh. Theo khoản 1, khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định khi đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
[2.2.4] Xét, Văn bản số 3977/CV-PC45 (Đ8) của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh phúc đáp văn bản của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận Phú Nhuận có nội dung: “Ngày 15/7/2015, các đối tượng này có hành vi làm giả giấy chứng minh nhân dân, đóng giả vợ cH PVT và bà NTPH đến Văn Phòng Công Chứng Gia Định ký hợp đồng công chứng chuyển nhượng căn nhà số LVS, Phường 11, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh cho ông TVD với giá 1,5 tỷ đồng, giao dịch này là trái pháp luật do người ký chuyển nhượng không phải là chủ sở hữu hợp pháp. Sau đó, ông D nộp hồ sơ đến Chi nhánh VPĐKĐĐ Quận Phú Nhuận để đăng ký cập nhật sang tên. Ngày 03/09/2015, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận Phú Nhuận đã thực hiện đăng ký thay đổi chủ sở hữu cho ông TVD, việc đăng ký thay đổi cho ông D là không đúng chủ sở hữu do căn cứ vào hợp đồng công chứng của giao dịch trái pháp luật”. Do đó, có căn cứ khẳng định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số 012029/HĐ-CN ngày 15 tháng 7 năm 2015 là giao dịch dân sự vô hiệu, do chủ thể tham gia giao dịch không tự nguyện theo quy định tại Điều 127, Điều 128 Bộ luật Dân sự.
[2.2.5] Xét, Văn bản số 10980/CV-PC02 (Đ7) của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh phúc đáp Văn bản số 3140/CV-TA ngày 03 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân Quận 1 có nội dung: Ngày 29 tháng 6 năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “ Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” để điều tra làm rõ. Do chưa xác định được đối tượng gây án nên ngày 29 tháng 10 năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án nhưng đến nay vẫn chưa phục hồi. Do đó, để đảm bảo quyền của chủ sở hữu tài sản, Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông T, bà H là phù hợp quy định tại Điều 4, Điều 5 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2.2.6] Xét, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “ Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và đang tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ đối tượng gây án, khi nào bắt được đối tượng sẽ xử lý trong vụ án khác là phù hợp quy định của pháp luật.
[2.2.7] Xét, các đương sự trong vụ án không ai yêu cầu Tòa án giải quyết về bồi thường thiệt hại, giải quyết hậu quả khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu dù đã được giải thích nhưng các đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét. Trường hợp phát sinh tranh chấp đến hợp đồng chuyển nhượng căn nhà trên thì dành cho các bên quyền khởi kiện trong vụ án khác.
[2.3] Đối với yêu cầu của ông T, bà H yêu cầu tuyên hủy phần đăng ký cập nhật chủ sở hữu cho ông TVD, theo hồ sơ số 27073.026746.CN do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận Phú Nhuận cập nhật ngày 03 tháng 9 năm 2015; Hội đồng xét xử nhận thấy:
Theo đơn rút yêu cầu khởi kiện bổ sung ngày 20 tháng 8 năm 2020 và tại phiên tòa ông T, bà H đã rút yêu cầu khởi kiện yêu cầu tuyên hủy phần đăng ký cập nhật chủ sở hữu cho ông TVD, theo hồ sơ số 27073.026746.CN do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận Phú Nhuận cập nhật ngày 03 tháng 9 năm 2015. Xét, việc rút yêu cầu khởi kiện của ông T và bà H là sự tự nguyện nên căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử yêu cầu của ông T, bà H đã rút
[2.4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, bà H là có cơ sở chấp nhận.
[2.5] Từ những phân tích nêu trên, xét việc giả mạo chữ ký, chữ viết và hình ảnh của ông T, bà H là do người khác giả mạo để xác lập giao dịch là vi phạm điều cấm của pháp luật nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số 012029/HĐ-CN đối với căn nhà số LVS, Phường 11, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh được ký giữa bên chuyển nhượng ông PVT, bà NTPH, bên nhận chuyển nhượng ông TVD, công chứng số 012029, quyển số 03 TP/CC-SCC/HDGD ngày 15 tháng 7 năm 2015, công chứng tại VP TP là vô hiệu được quy định tại Điều 127, Điều 128 Bộ luật Dân sự nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên ngay thời điểm hợp đồng được ký kết. Do đó, Hội đồng xét xử xét có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của ông T, bà H tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nêu trên là vô hiệu theo quy định tại Điều 410 Bộ luật Dân sự.
[3] Về chi phí tố tụng:
Căn cứ Điều 155, Điều 156, khoản 1 Điều 158 Bộ luật Tố tụng Dân sự VP TP chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ nhưng ông T, bà H tự nguyện chịu và đã nộp đủ nên ghi nhận.
[4] Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. VP TP phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tranh chấp về dân sự do yêu cầu của ông T, bà H được chấp nhận. Ông T, bà H không phải chịu án phí.
[5] Về quyền kháng cáo:
Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[Nguồn: Bản án GĐT số 238/2021/DS-ST ngày 13/12/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 238/2021/DS-ST
———–
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn