Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Việc ủy quyền vượt quá phạm vi dẫn đến Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ vô hiệu do giả tạo, vi phạm pháp luật, trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Việc ủy quyền vượt quá phạm vi dẫn đến Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ vô hiệu do giả tạo, vi phạm pháp luật, trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của Ông Triệu Văn T là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn làm trong hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án giải giải quyết vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan của vụ án theo khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự do đương sự có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút yêu cầu kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm nên HĐXX không xem xét và không đình chỉ do không thuộc phạm vi khởi kiện.

[2] Về nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

Theo Bản án số 47/2020/HSST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã tuyên Lê Thị H, ở Khu X, xã T L, huyện T N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với mức án 16 năm tù và buộc Bà Lê Thị H phải bồi thường cho Bà Nguyễn Thị H số tiền là 880.000.000 đồng. Bản án trên bị cáo có kháng cáo về hình phạt, không có kháng cáo kháng nghị phần dân sự của bản án, do vậy phần dân sự có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 05/10/2020. Như vậy nghĩa vụ dân sự của Bà Lê Thị H theo bản án bắt đầu từ ngày 05/10/2020 còn việc buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự thì kể từ khi người có quyền có đơn yêu cầu.

Quyết định số 304/2020/HSPT ngày 08/12/2020 của TAND cấp cao tại Hà Nội: Đình chỉ xét xử phúc thẩm về phần hình sự. Tại quyết định trên cũng nêu rõ bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, do vậy phần dân sự của bản án có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 18.120.080 ngày 16/8/2018 (nghĩa là Bà H thế chấp ngày 16/8/2018) giữa Bà Lê Thị H và Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đ H (nay là chi nhánh B P T) – Phòng Giao dịch T N (BL[1]169) thì các bên xác định giá trị tài sản thế chấp là 2.120.000.000 đồng. Gía chuyển nhượng thực tế do chị Đinh Thị Thúy H và vợ chồng Anh Trần Anh T và chị Bùi Thị L khai nhận là 1.041.571.293 đồng (bao gồm cả tiền án phí của Bà H). Gía do cơ quan Chi cục thuế huyện T N tính là 559.628.360 đồng. Tuy nhiên “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” lập ngày 15/4/2021 giữa Bà Lê Thị H (do chị Đinh Thị Thúy H ký hợp đồng theo ủy quyền của Bà H) với Anh Trần Anh T và chị Bùi Thị L ghi giá trị chuyển nhượng là 100.000.000 đồng.

Ông Triệu Văn T cung cấp cho tòa án kết quả thẩm định giá tài sản trên (là tài liệu tham khảo) tại thời điểm giải quyết tại cấp phúc thẩm, giá trị nhà và đất là 2.469.480.000 đồng.

Điều 124 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan”. Từ những tình tiết vụ việc có cơ sở xác định giá ghi trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng ngày 15/4/2021 là giả tạo nhằm che giấu Hợp đồng giá cao hơn (để “chịu thuế thấp”). Khoản 2 Điều 501 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Nội dung của hợp đồng về quyền sử dụng đất không được trái với quy định về mục đích sử dụng, thời hạn sử dụng đất, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan” (Việc hai bên khai giá trên hợp đồng chuyển nhượng bất động sản thấp hơn giá thực tế sẽ dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp. Đây là hành vi trốn thuế theo quy định tại khoản 5 Điều 143 Luật Quản lý thuế 2019 – là hành vi bị nghiêm cấm).

Về việc nguyên đơn không làm đơn yêu cầu thi hành án dân sự trước thời điểm có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/4/2021: Do nguyên đơn không được nhận trích lục án phần dân sự có hiệu lực pháp luật, nội dung này được chứng minh bằng các tài liệu là các đơn khiếu nại, dấu cấp văn bản (25/3/2022 là ngày Bà H nhận được Quyết định số 304/2020/HSPT) nên nguyên đơn không biết thời điểm án có hiệu lực để làm đơn đề nghị thi hành án dân sự là khách quan.

Về Hợp đồng ủy quyền số 2064, quyển số 03/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 01/4/2021 Văn phòng Công chứng K Đ lập. Mặc dù tôn trọng sự tự định đoạt của đương sự nhưng việc ủy quyền lại vượt quá giới hạn pháp luật cho phép, bởi lẽ người ủy quyền đang có nghĩa vụ dân sự theo bản án hình sự, ngoài tài sản này người ủy quyền không còn bất kỳ tài sản nào có giá trị. Do đó, Khi ký hợp đồng ủy quyền, lẽ ra người ủy quyền chỉ được ủy quyền phần giao dịch giải chấp tài sản với ngân hàng (để giải quyết khoản nợ với ngân hàng từ trước), thì người ủy quyền lại ủy quyền cho người nhận ủy quyền được toàn quyền mua bán, chuyển nhượng, định đoạt khối tài sản này (là ngoài các quyền Bà H có). Việc ủy quyền này đã vượt quá phạm vi được phép ủy quyền và gây thiệt hại cho người khác (cụ thể là chủ nợ). Vì sau khi giải chấp khoản vay với ngân hàng thì khối tài sản này đã không còn bị ràng buộc với ngân hàng, nhưng lại phát sinh nghĩa vụ ràng buộc với các chủ nợ khác. Điều 10 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giới hạn việc thực hiện quyền dân sự

“1. Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật.

  1. Trường hợp cá nhân, pháp nhân không tuân thủ quy định tại khoản 1 Điều này thì Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể không bảo vệ một phần hoặc toàn bộ quyền của họ, buộc bồi thường nếu gây thiệt hại và có thể áp dụng chế tài khác do luật quy định”.

Điều 160 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản

  1. Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được xác lập, thực hiện trong trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định

Quyền khác đối với tài sản vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển giao, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

  1. Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Ngoài các nội dung trên còn thấy: Anh Bùi Đình M là con của Bà H có đăng ký quyền sử dụng đất riêng đứng tên ông Bùi Đình M tại 02 thửa đất thuộc Khu X, xã T L, huyện T N, tỉnh Phú Thọ (Thửa đất số: 218, tờ bản đồ số 12, diện tích 307,4 m2 , loại đất: Đất trồng cây lâu năm được UBND huyện T N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/7/2016, có số phát hành CĐ 865322, số vào sổ CH-01029. Nguồn gốc: Nhận cho tặng quyền sử dụng đất từ bố mẹ đẻ. Thửa đất số: 214, tờ bản đồ số 12, diện tích 204,0 m2 (trong đó: ONT = 100,0 m2 + CLN = 104,0 m2 ) được UBND huyện T N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 09/3/2018, có số phát hành CK 314848, số vào sổ CH-01275. Nguồn gốc: Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hai thửa đất này không đăng ký giao dịch bảo đảm từ năm 2018 đến năm 2022 (Tài liệu do UBND huyện T N cung cấp). Việc Anh M có tài sản nhưng lại dùng tài sản của Bà H để thực hiện nghĩa vụ đối với ngân hàng, trong khi Bà H đang có nghĩa vụ thì lại bằng việc ủy quyền (lạm dụng quyền dân sự) gây thiệt hại cho người khác, nên cần xác định trong trường hợp này việc ủy quyền bị giới hạn, việc lạm quyền là vi phạm pháp luật.

Từ các lập luận trên, nhận thấy: Việc ủy quyền chuyển nhượng của Bà Lê Thị H đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Bà H. Vì vậy, Bà H khởi kiện yêu cầu Toà án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Đinh Thị Thuý H với Trần Anh T và Bùi Thị L vô hiệu là có căn cứ. Lý do vô hiệu là do giả tạo, vi phạm pháp luật, trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Do vậy, cần sửa Bản án sơ thẩm 10/2022/DS-ST ngày 20/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện T N, tỉnh Phú Thọ theo hướng;

– Xác định Hợp đồng ủy quyền số 2064, quyển số 03/2021 TP/CC[1]SCC/HĐGD ngày 01/4/2021 do Văn phòng Công chứng K Đ lập chỉ có giá trị pháp lý đối với phần giải chấp tại ngân hàng, các nội dung khác vô hiệu.

– Xác định Hợp đồng chuyển nhượng ngày 15/4/2021 đối với thửa đất số 58, tờ bản đồ số 12, diện tích 1093,8 m2 và tài sản gắn liền với đất giữa Bà Lê Thị H (do chị Đinh Thị Thuý H được ủy quyền ký bên A) với Trần Anh T và Bùi Thị L đã được công chứng số 1447 quyển số 02/2021 TP- SCC/HĐGD do Văn phòng Công chứng H T N đã thực hiện là vô hiệu.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa DA 604511 ngày 28/5/2021 do UBND huyện T N cấp cho Trần Anh T và Bùi Thị L đối với thửa đất số 58, tờ bản đồ số 12, diện tích 1093,8 m2 tại Khu X, xã T L, huyện T N, tỉnh Phú Thọ không còn giá trị sử dụng, cần thu hồi. Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 58, tờ bản đồ số 12, diện tích 1093,8 m2 và tài sản gắn liền với đất được trả lại cho Bà Lê Thị H.

Chị Đinh Thị Thúy H, Văn phòng Công chứng K Đ có biết về Bản án số 47/2020/HS-ST đã có hiệu lực pháp luật hay không. Hai nội dung này đã làm rõ tại cấp sơ thẩm, không có cơ sở xác định chị Đinh Thị Thúy H và Văn phòng Công chứng K Đ đã không khách quan khi công chứng và chuyển nhượng tài sản.

Văn bản công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/4/2021 tại Văn phòng Công chứng H T N là đúng trình tự pháp luật nhưng do các bên khai gian dối về giá chuyển nhượng, nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba và vi phạm pháp luật nên vô hiệu về nội dung, không thuộc lỗi của Công chứng viên.

Về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: Anh Trần Anh T và chị Bùi Thị L, chị Đinh Thị Thúy H, Bà Lê Thị H vắng mặt nên không thể hiện quan điểm giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu có yêu cầu thì giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ là có cơ sở nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Yêu cầu kháng cáo của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn được chấp nhận nên không phải chịu án phí phúc thẩm.

[Nguồn: Bản án số 32/2023/DS-PT ngày 10/5/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 32/2023/DS-PT

…………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan