- Tuyên di chúc vô hiệu vì người lập di chúc không biết chữ nhưng không có người chứng kiến
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Ngày 20.10.2021 và ngày 05.11.2021 bà Huỳnh Thị H kháng cáo một phần bản án sơ thẩm. Ngày 20.10.2021 ông Huỳnh Đức T, bà Trần Thị V, ông Huỳnh Đức L, bà Nguyễn Thị T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 05.11.2021 bà Huỳnh Thị Thúy P, Huỳnh Thị V, bà Nguyễn Thị Kim T, Huỳnh Thị Tuyết M, Huỳnh Ngọc N, Huỳnh Thị Ngọc T, bà Phạm Thị Xuân L, Huỳnh Xuân H, Huỳnh Xuân H, Huỳnh Xuân H kháng cáo một phần bản án sơ thẩm. Như vậy đơn kháng cáo của các ông bà nêu trên là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Qúa trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu đối với nội dung chia 750m2 tại thửa 204a/2, tờ bản đồ số 4; địa chỉ: Khối phố N, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam và diện tích 436,5m2. Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích đất 750m2, thửa số 204a/2 và diện tích đất là 436,5m2 cùng tờ bản đồ số 4; cùng địa chỉ: khối phố N, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm bà Huỳnh Thị L (LM) đại diện ủy quyền của bà Huỳnh Thị H và luật sư Nguyễn Thị Tuyết Sương tự nguyện rút kháng cáo. Ông Huỳnh Ngọc L đại diện ủy quyền của bà Nguyễn Thị Kim T tự nguyện rút kháng cáo. Bà Huỳnh Thị Thúy P, bà Huỳnh Thị V có đơn đề ngày 07.4.2022 tự nguyện rút kháng cáo. Bà Phạm Thị Xuân L, anh Huỳnh Xuân H, anh Huỳnh Xuân H, anh Huỳnh Xuân H có đơn đề ngày 08.4.2022 tự nguyện rút kháng cáo. Bà Huỳnh Thị Tuyết M, Huỳnh Ngọc N, Huỳnh Thị Ngọc T có đơn đề ngày 08.4.2022 tự nguyện rút kháng cáo. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 289, Điều 295 và Điều 312 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Huỳnh Thị H, Nguyễn Thị Kim T, Bà Huỳnh Thị Thúy P, bà Huỳnh Thị V, bà Phạm Thị Xuân L, anh Huỳnh Xuân H, anh Huỳnh Xuân H, anh Huỳnh Xuân H, bà Huỳnh Thị Tuyết M, Huỳnh Ngọc N, Huỳnh Thị Ngọc T.
[2] Xét kháng cáo của ông Huỳnh Đức T, bà Trần Thị V, ông Huỳnh Đức L, bà Nguyễn Thị T:
[2.1] Đối với di chúc ngày 09.6.1994:
Qúa trình giải quyết vụ án nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều thừa nhận cụ Nguyễn Thị C không biết chữ, không biết đọc, không biết viết. Còn bị đơn Huỳnh Đức T trình bày tại Biên bản lấy lời khai ngày 12.12.2019 do Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam lập thể hiện: “Bản di chúc do mẹ tôi là Nguyễn Thị C lập năm 1994… ; bản di chúc này khi tôi đến Ủy ban xã theo yêu cầu của mẹ tôi thì tôi đã thấy bản di chúc này ghi sẵn rồi, tôi chỉ tới ký thôi, tôi không biết người ghi di chúc… Khi đó, mẹ tôi gọi tôi đến nhà chở mẹ đến UBND xã rồi mẹ nói tôi ký bản di chúc đã được lập sẵn… cụ C không biết chữ… Cụ C có điểm chỉ vào bản di chúc… Ông Thái – Chủ tịch UBND xã có đọc di chúc cho tôi và mẹ tôi nghe…” (bút lục số 207). Tại Biên bản xác minh ngày 12.8.2021 do Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam lập đối với ông Lê Chí Thái là người chứng thực vào di chúc ngày 09.6.1994 của cụ Nguyễn Thị C thể hiện: “Ngày 10.6.1994 ông Huỳnh Đức T chở cụ Nguyễn Thị C đến trụ sở UBND xã Đ để yêu cầu chứng thực di chúc do cụ Nguyễn Thị C lập ngày 09.6.1994. Khi đến ông T xuất trình bản di chúc đã viết sẵn nội dung trong đó và ông T cũng đã ký trước vào bản di chúc. Tôi kiểm tra bản di chúc và cụ Nguyễn Thị C còn minh mẫn điểm chỉ trước mặt tôi. Thời điểm đó tôi không rõ cụ C có biết chữ hay không… tôi đã đọc toàn bộ nội dung trong di chúc cho cụ C nghe…” (bút lục số 381). Như vậy, các đương sự đều đã thừa nhận cụ Nguyễn Thị C không biết chữ, không biết đọc, không biết viết là có căn cứ.
Theo khoản 3 Điều 14 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 quy định: “Trong trường hợp người lập di chúc không đọc bản di chúc được, không ký hoặc điểm chỉ được, thì phải nhờ người chứng kiến. Người chứng kiến đọc bản di chúc cho người lập di chúc nghe và ký vào bản di chúc trước mặt người có trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng hoặc UBND xã, phường, thị trấn…”. Đối chiếu với nội dung nêu trên thì thấy: Cụ Nguyễn Thị C không biết chữ nên di chúc phải có người chứng kiến. Tuy nhiên, UBND xã Đ khi thực hiện việc chứng thực di chúc của cụ C đã không mời người chứng kiến là vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 14 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990. Hơn nữa, ông Huỳnh Đức T là người được thừa kế theo di chúc của cụ C lại ký vào bản di chúc này là vi phạm khoản 1 Điều 19 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 “1. Người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc của người nào thì không được chứng thực hoặc xác nhận di chúc của người đó”. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định di chúc của cụ Nguyễn Thị C lập ngày 09.6.1994 được UBND xã Đ chứng thực ngày 10.6.2019 vô hiệu là có căn cứ.
[2.2] Đối với GCNQSDĐ cấp cho hộ ông T; cấp cho ông Huỳnh Đức L và bà Huỳnh Thị T; Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất:
Qúa trình giải quyết vụ án các đương sự đều thừa nhận: Nguồn gốc đất được cấp GCNQSDĐ số K 129250 do UBND huyện Đ cấp ngày 09.5.1998 cho hộ ông Huỳnh Đức T đối với thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.380m2 tại khối N, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam là diện tích đất do cụ Huỳnh C, cụ Nguyễn Thị C sử dụng kê khai đăng ký tại thửa đất số 122, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.260m2, loại đất T thuộc thôn 4, Hợp tác xã 2 Đ (Sổ đăng ký ruộng đất 5b ký năm 1995). Trên diện tích đất này có nhà ở do cụ Huỳnh C, cụ Nguyễn Thị C xây dựng quản lý sử dụng và sinh sống. Như vậy, thửa đất cấp GCNQSDĐ cho hộ ông T có nguồn gốc là của cụ Huỳnh C và cụ Nguyễn Thị C sử dụng kê khai đăng ký tại thửa đất số 122, tờ bản đồ số 4.
Ngày 09.5.1998 hộ ông Huỳnh Đức T được cấp GCNQSDĐ số K 129250 đối với 1.380m2 tại thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4. Diện tích đất ông T được cấp GCNQSDĐ chênh lệch thừa 120m2 so với diện tích đất cụ C kê khai đăng ký theo hồ sơ 299/TTg là do kê khai và thực tế sử dụng có thay đổi; hiện nay diện tích tăng thêm này không có tranh chấp. Sau đó ông T tách thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4 thành hai thửa: Thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 890m2 (thửa thứ nhất) và thửa đất số 438/1, tờ bản đồ số 4, diện tích 490m2 (thửa thứ hai). Đối với thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 890m2 (thửa thứ nhất) ông Huỳnh Đức T, bà Trần Thị V tặng cho ông Huỳnh Đức L, bà Nguyễn Thị T và hiện nay ông Huỳnh Đức L và bà Huỳnh Thị T đã được UBND thị xã Đ cấp GCNQSDĐ số BE 104575 ngày 26.7.2011 đối với thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 890m2, loại đất ở (đo đạc thực tế là 880,5m2) tại khối phố N, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam.
Như đã phân tích ở trên, di chúc của cụ Nguyễn Thị C lập ngày 09.6.1994 được UBND xã Đ chứng thực ngày 10.6.2019 vô hiệu, nên GCNQSDĐ số K 129250 do UBND huyện Đ cấp cho hộ ông Huỳnh Đức T là không đúng pháp luật. Từ đó, Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất giữa ông T, bà V với ông L, bà T được UBND xã Đ chứng thực ngày 17.3.2011 cũng không đúng pháp luật. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định Hủy một phần GCNQSDĐ số K 129250 do UBND huyện Đ cấp ngày 09/5/1998 cho hộ ông Huỳnh Đức T đối với phần diện tích đất là 880,5m2 (đo đạc thực tế) thuộc thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, loại đất ở tại khối phố N, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam; hủy GCNQSDĐ số BE 104575 do UBND thị xã Đ cấp ngày 26.7.2011 cho ông Huỳnh Đức L và bà Huỳnh Thị T đối với thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 890m2, loại đất ở (đo đạc thực tế là 880,5m2) tại khối phố N, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam; tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa người tặng cho là vợ chồng ông Huỳnh Đức T, bà Trần Thị V với người nhận tặng cho là vợ chồng ông Huỳnh Đức L, bà Nguyễn Thị T đối với thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 890m2 (đo đạc thực tế là 880,5m2) tại khối phố N, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam, được UBND xã Đ cũ (nay là UBND phường Đ) chứng thực ngày 17.3.2011 bị vô hiệu là có căn cứ.
[2.3] Đối với các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; GCNQSDĐ cấp cho ông Nguyễn Đình P, bà Nguyễn Thị T và phần chỉnh lý biến động:
Đối với thửa đất số 438/1, tờ bản đồ số 4, diện tích 490m2 (thửa thứ hai) ông Huỳnh Đức T chuyển nhượng cho ông Nguyễn Đình P, bà Nguyễn Thị T; ngày 26.7.2011 ông P, bà T được UBND thị xã Đ cấp GCNQSDĐ số BE104576 đối với thửa đất số 438/1, tờ bản đồ số 4 tại khối phố N, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam. Sau đó, ông Nguyễn Đình P, bà Nguyễn Thị T chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Thanh C, bà Phùng Thị T; ông C, bà T được chỉnh lý biến động ngày 14.02.2017 về chủ sở hữu từ ông P, bà T sang ông C, bà T. Tiếp tục ông Nguyễn Thanh C, bà Phùng Thị T chuyển nhượng cho ông Nguyễn Phạm Triệu V, bà Huỳnh Thị Ngọc Qúy và được Văn phòng công chứng Điện Nam – Đ công chứng ngày 16.3.2018; ông V, bà Qúy được chỉnh lý biến động ngày 21.3.2018 về chủ sở hữu từ ông C, bà T sang ông V, bà Qúy.
Xét thấy: Các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên đều được công chứng và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ hoặc được chỉnh lý biến động về chủ sở hữu. Hơn nữa, vợ chồng ông P, vợ chồng ông C và vợ chồng ông V khi giao dịch đều không biết diện tích đất này có tranh chấp, không biết việc hộ ông Huỳnh Đức T được cấp GCNQSDĐ là không đúng pháp luật; hiện nay trên thửa đất số 438/1, tờ bản đồ số 4 ông V, bà Qúy làm nhà ở sinh sống ổn định, không có tranh chấp. Do đó, giao dịch đối với thửa đất số 438/1, tờ bản đồ số 4 tại khối phố N, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam giữa vợ chồng ông P, vợ chồng ông C và vợ chồng ông V là ngay tình theo khoản 2 Điều 133 Bộ luật Dân sự nên không bị vô hiệu.
[2.4] Đối với yêu cầu chia thừa kế:
Với những nội dung được các đương sự thống nhất với nhau và nội dung được phân tích tại các tiểu mục [2.1], [2.3] và [2.3] nêu trên đã xác định được: Di sản của cụ Huỳnh C, cụ Nguyễn Thị C là 1.380m2 đất ở (kể cả diện tích chênh lệch thừa) gồm thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 880,5m2 và thửa đất số 438/1, tờ bản đồ số 4, diện tích 499,5m2 (diện tích đất đo đạc thực tế) được chia theo pháp luật cho 07 người con gồm: Huỳnh Thị I, H Ngọc Đ, Huỳnh Đức T, Huỳnh Thị H, H Thị N, Huỳnh Thị L, Huỳnh Thị L (LM).
Thửa đất số 438/1, tờ bản đồ số 4, diện tích 499,5m2 ông Huỳnh Đức T đã chuyển nhượng cho người khác và thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 880,5m2 ông Huỳnh Đức T, bà Trần Thị V đã tặng cho ông Huỳnh Đức L, bà Nguyễn Thị T. Theo kết quả định giá tài sản ngày 15.6.2021 thì: Thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.380m2 đất ở là 24.840.000.000đ (tức là 18.000.000đ/m2 x 1.380m2); trong đó, thửa đất số 438/1, tờ bản đồ số 4, diện tích 499,5m2 (ông toàn đã chuyển nhượng) là 8.991.000.00đ (tức là 18.000.000đ/m2 x 499,5m2) và thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 880,5m2 (ông toàn đã tặng cho) là 15.849.000.000đ (tức là 18.000.000đ/m2 x 880,5m2).
Về tài sản trên đất: Sau khi ông Huỳnh Đức L được tặng cho thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 880,5m2 ông L có đổ đất san lấp mặt bằng, trồng một số cây, cây ăn quả và có một số cây tái sinh, tự mọc. Theo kết quả định giá ngày 15.6.2021 giá trị san lấp mặt bằng là 87.170.000đ. Đối với tường rào các đương sự không tranh chấp và thống nhất Tòa án giải quyết tranh chấp giao đất cho ai thì người đó được quyền sử dụng, sở hữu.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thừa nhận ông Huỳnh Đức T có công quản lý, bồi trúc, tôn tạo và làm tăng giá trị của đất nên thống nhất chia cho ông T một suất thừa kế có giá trị tương đương giá trị thửa đất số 438/1, tờ bản đồ số 4, diện tích 499,5m2 mà ông Huỳnh Đức T đã chuyển nhượng cho người khác sau khi thối trả cho ông Huỳnh Đức L 87.170.000đ là giá trị san lấp mặt bằng. Như vậy, ông T được nhận kỷ phần có giá trị là 8.903.830.000đ (tức là 8.991.000.00đ – 87.170.000đ) là cao và có lợi cho ông T. Thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 880,5m2 được chia thừa kế theo pháp luật cho 06 đồng thừa kế còn lại là: Huỳnh Thị I, H Ngọc Đ, Huỳnh Thị H, H Thị N, Huỳnh Thị L (LM), Huỳnh Thị L (mỗi kỷ phần là 2.641.500.000đ) và giao thửa đất số 438, tờ bản đồ số 4, diện tích 880,5m2 cho Huỳnh Thị H, bà H Thị N, Huỳnh Thị L, Huỳnh Thị L (LM) và các đồng thừa kế của bà Huỳnh Thị I, ông Huỳnh Thành (Huỳnh Thị V, Huỳnh Ngọc T, Huỳnh Minh Chương, Huỳnh Ngọc L, Huỳnh Ngọc H, Huỳnh Thị Ngọc H, Huỳnh Thị Ngọc H, Huỳnh Thị Thúy phượng), ông H Ngọc Đ (H Thị Thu H1, H Ngọc D, H Ngọc H, H Thị Thu H2, H Ngọc T), Huỳnh Minh Chương (Phạm Thị Xuân L, Huỳnh Xuân H, Huỳnh Xuân H, Huỳnh Xuân H), Huỳnh Ngọc H (Nguyễn Thị Kim T, Huỳnh Thị Tuyết M, Huỳnh Ngọc N, Huỳnh Thị Ngọc T) sở hữu, sử dụng chung. Các đương sự không yêu cầu Tòa án định giá để thối trả giá trị.
[3] Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm hôm nay, các đương sự không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới. Căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày và tranh tụng tại phiên tòa và những nội dung được phân tích tại các mục [1], [2] nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng kháng cáo của ông Huỳnh Đức T, bà Trần Thị V, ông Huỳnh Đức L, bà Nguyễn Thị T là không có căn cứ để chấp nhận, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Huỳnh Thị H, ông Huỳnh Đức T, bà Trần Thị V, bà Phạm Thị Xuân L được miễn;
Ông Huỳnh Đức L, bà Nguyễn Thị T, bà Huỳnh Thị Thúy P, bà Huỳnh Thị V, bà Nguyễn Thị Kim T, bà Huỳnh Thị Tuyết M, ông Huỳnh Ngọc N, bà Huỳnh Thị Ngọc T, ông Huỳnh Xuân H, ông Huỳnh Xuân H, ông Huỳnh Xuân H phải chịu theo quy định của pháp luật.
[Nguồn: Bản án PT số 95/2022/DS-PT Ngày 13/4/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn Bản án: Bản án PT số 12/2022/DS-PT