NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện các chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về hình thức đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị đơn cụ Đinh Thị S có đầy đủ nội dung, nộp đúng thời hạn theo quy định của pháp luật, là căn cứ để để Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của bị đơn cụ Đinh Thị S:
Xét thấy: Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Phan Văn T, bà Nguyễn Thị M với cụ Đinh Thị S phát sinh từ các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất (tặng cho, chuyển nhượng) đối với thửa đất số 270, tờ bản đồ số P7-30, diện tích 200,0m2 , địa chỉ thửa đất: Tổ 9A, thị trấn S, huyện S (nay là tổ 4, phường S, thị xã S). Vì vậy, để xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông T, bà M, yêu cầu phản tố của bị đơn cụ S cần xem xét tính hợp pháp của các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất và việc cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất tranh chấp:
[2.1] Xét việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn Thế T, cụ Đinh Thị S với ông Nguyễn Thế H, bà Nguyễn Thị K:
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn cụ S cho rằng nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là do cụ và ông Nguyễn Thế T khai hoang, ngày 26/8/2001 cụ T và cụ S đã làm giấy tờ tặng cho các con là ông Nguyễn Thế H, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thế H1, bà Nguyễn Thị M1, ông Nguyễn Thế Q, ông Nguyễn Thế B, ông Nguyễn Thế C mỗi người diện tích đất là 300m2 , cháu Nguyễn Tất T diện tích là 150m2 tại tổ 9A, thị trấn S, huyện S. Trong đó diện tích đất tranh chấp là cụ S và cụ T tặng cho ông Nguyễn Thế B (mất năm 2016), diện tích đất tặng cho ông Nguyễn Thế H nằm ở vị trí khác. Cụ S cho rằng diện tích đất hiện đang tranh chấp nằm trong phần đất cụ đã tặng cho ông Nguyễn Thế B chứ không phải tặng cho ông Nguyễn Thế H. Ngoài ra cụ S cho rằng Giấy chuyển nhượng thừa kế ngày 13/7/2004 về việc cụ T và cụ S tặng cho ông H diện tích đất 1.300m2 là giả mạo, vợ chồng cụ S cụ T chỉ làm duy nhất Giấy cho đất làm nhà và làm vườn sử dụng lâu dài ngày 26/8/2001. Lời khai của cụ S phù hợp với lời khai những người làm chứng các con của cụ là Nguyễn Thị H, Nguyễn Thế H1, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thế Q, Nguyễn Thế C đều cho rằng chữ ký, chữ viết của cụ T và cụ S trong Giấy chuyển nhượng thừa kế ngày 13/7/2004 là giả mạo, không có thật.
[2.2] Xét tính hợp pháp của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 253784, vào sổ số CH: 00512 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 21/12/2018 mang tên ông Nguyễn Thế H và bà Nguyễn Thị K:
Quá trình giải quyết vụ án theo yêu cầu của cụ S về việc trưng cầu giám định đối với chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thế T và Đinh Thị S trong Giấy chuyển nhượng thừa kế ngày 13/7/2004. Tòa án đã yêu cầu các cơ quan lưu trữ cung cấp bản gốc Giấy chuyển nhượng thừa kế ngày 13/7/2004 để làm căn cứ thực hiện trưng cầu giám định. Tại công văn số 03 ngày 09/01/2023 của Chi nhánh VPĐKĐĐ thị xã S; Công văn số 226 ngày 15/6/2021 của Phòng Tài nguyên và môi trường thị xã S đều xác nhận không có bản gốc của Giấy chuyển nhượng thừa kế ngày 13/7/2004 trong hồ sơ lưu trữ mà chỉ có bản sao chứng thực; Công văn số: 347/ UBND-ĐC ngày 23/8/2023 về việc cung cấp tài liệu chứng cứ của UBND phường S có nội dung: “Qua kiểm tra kho lưu trữ của UBND phường S và danh mục hồ sơ nhận bàn giao từ UBND thị trấn S (cũ) không lưu trữ hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 253784 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 21/12/2018 mang tên ông Nguyễn Thế H và bà Nguyễn Thị K đối với thửa đất số 270, tờ bản đồ P7- 30, diện tích 200m2, địa chỉ: Tổ 9A thị tấn Sa Pa huyện S nên không lưu trữ Giấy chuyển nhượng thừa kế ngày 13/7/2004, giữa ông Nguyễn Thế T, bà Đinh Thị S với ông Nguyễn Thế H”
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông H, bà K cho rằng diện tích đất tranh chấp ông bà được bố mẹ là cụ T và cụ S tặng cho theo Giấy chuyển nhượng thừa kế ngày 13/7/2004, đây là căn cứ để ông bà làm thủ tục để cấp GCNQSDĐ số BP 253784 ngày 21/12/2018 đối với phần diện tích đất được tặng cho tại thửa đất số 270, tờ bản đồ P7-30, diện tích 200m2 tại: Tổ 9A, thị trấn S, huyện S. Tuy nhiên, quá trình cung cấp chứng cứ ông H, bà K không cung cấp được bản gốc giấy tặng cho ngày 15/7/2004 để chứng minh cho yêu cầu của mình. Vì vậy lời khai của ông H, bà K cho rằng bản gốc của Giấy chuyển nhượng thừa kế ngày 13/7/2004 đã nộp cho phòng Tài nguyên và môi trường huyện S để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không có căn cứ nên không được chấp nhận.
Ngoài ra tại Bản án số: 05/2019/DSST ngày 28/6/2019 về việc “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu tuyên bố giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vô hiệu” giữa Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị M2 – Trú tại: Xã L, huyện M, tỉnh Lào Cai với Bị đơn: bà Nguyễn Thúy O, trú tại: Tổ 7c thị trấn S huyện S, tỉnh Lào Cai, có nội dung như sau: “Tại bản tự khai ngày 30/11/2017, với tư cách là Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Thế H trình bày: Ngày 26/8/2001 bố mẹ ông họp gia đình và chia đất cho các con, mỗi người một thửa khoảng 300m2 . Thửa đất vợ chồng ông được cho bên kia suối, cùng khu đất của ông Bình (em trai ông) và cháu T. Khi chia đất ông không có nhà, sau đó anh trai và bố mẹ ông nói với ông nên ông H đã thuê máy súc vào san gạt thửa đất bên kia suối. Xét thấy, lời trình bày trong bản án nêu trên của ông H về nguồn gốc đất tranh chấp phù hợp với lời khai của cụ S và phù hợp với lời khai của các con cụ S là Nguyễn Thị H, Nguyễn Thế H1, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Thế Q, Nguyễn Thế C và lại mâu thuẫn với lời khai của ông H, bà K về việc được cụ T, cụ S tặng cho thửa đất diện tích đất 1.300m2 tại tổ 7c thị trấn S huyện S, tỉnh Lào Cai trong Giấy chuyển nhượng thừa kế ngày 13/7/2004.
Từ những phân tích trên thấy rằng không căn cứ xác định ông H, bà K được bố mẹ là cụ T và cụ S tặng cho diện tích đất đã được UBND huyện S cấp GCNQSDĐ số BP 253784 ngày 21/12/2018 đối với phần đất được tặng cho tại thửa đất số 270, tờ bản đồ P7-30, diện tích 200m2 .
Ngoài ra UBND huyện S cấp GCNQSDĐ cho ông Nguyễn Thế H, bà Nguyễn Thị K thửa đất số 270, tờ bản đồ P7-30 trong khi bản đồ địa chính đối với thửa đất này đứng tên ông Nguyễn Hải Q mà chưa có sự xem xét, chỉnh lý trước khi làm thủ tục cấp GCNQSDĐ là không đúng quy định của pháp luật. Tại Bản tự khai ngày 18/8/2018 bà Nguyễn Thị K trình bày: “Đối với việc bản đồ địa chính năm 2018 không mang tên vợ chồng tôi. Khi lập bản đồ địa chính, đơn vị đo đạc trích đo, ai kê khai chỉ đất thì đơn vị tư vấn họ đo, khi kê khai đo đạc đơn vị tư vấn không gọi vợ chồng tôi. Thời điểm đó ông Nguyễn Hải Q đứng ra kê khai nên có tên ông Q” (BL 427). Xét thấy lời khai của bà Nguyễn Thị K là không có cơ sở. Bản đồ địa chính được lập để sử dụng trong quá trình quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
[2.3] Xét tính hợp pháp của giao dịch tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Thế H, bà Nguyễn Thị K với anh Nguyễn Việt A và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Nguyễn Việt A với ông Phan Văn T, bà Nguyễn Thị M:
Như phần trên đã nhận định thì xác định ông H, bà K không có quyền sở hữu đối với diện tích đất tranh chấp tại thửa đất số 270, tờ bản đồ P7-30, diện tích 200m2 tại: Tổ 9A, thị trấn S, huyện S (nay là tổ 4, phường S, thị xã S) theo GCNQSDĐ số BP 253784 do UBND huyện S cấp ngày 21/12/2018. Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai đây thuộc trường hợp Nhà nước phải thu hồi GCNQSDĐ đã cấp. Tuy nhiên người được cấp GCNQSDĐ là ông H, bà K đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật về đất đai. Theo quy định tại Điều 180 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì ông Phan Văn T, bà Nguyễn Thị M là người thứ ba ngay tình, không có lỗi trong việc nhận chuyển nhượng QSDĐ từ anh Nguyễn Việt A. Theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015:
“2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu;
- Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.”
Tại phiên tòa Người đại diện theo ủy quyền của Bị đơn cụ Đinh Thị S là Anh Nguyễn Khánh H rút một phần yêu cầu phản tố, nội dung kháng cáo đối với yêu cầu tuyên bố vô hiệu Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy xác nhận đăng ký biến động trên GCNQSDĐ, chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông H, bà K bồi thường thiệt hại số tiền tương đương với giá trị quyền sử dụng theo kết quả định giá của Hội đồng định giá được thành lập theo quyết định của Tòa án là 5.000.000.000đồng (Năm tỷ đồng). Hội đồng xét xử xét thấy việc rút một phần yêu cầu phản tố, nội dung kháng cáo của bị đơn là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp theo quy định tại Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông H, bà K với anh Việt A và việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Viết Anh với ông T, bà M đều được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật Đất đai nên có hiệu lực. Vì vậy, ông T, bà M là chủ sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất theo GCNQSDĐ số BP 253784 do UBND huyện S cấp ngày 21/12/2018 mang tên ông Nguyễn Thế H và bà Nguyễn Thị K diện tích đất là 200m2 , tại: Tổ 04, phường S, thị xã S do UBND huyện S cấp ngày 21/12/2018, đăng ký biến động chuyển nhượng cho ông T, bà M ngày 25/12/2018. Cần buộc cụ Đinh Thị S phải trả quyền sử dụng đất và chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sử dụng đất của ông Phan Văn T và bà Nguyễn Thị M.
[3]. Về yêu cầu bồi thường thiệt hại của cụ Đinh Thị S:
Tại cấp phúc thẩm, bị đơn cụ S đề nghị Tòa án định giá lại đối với tài sản là quyền sử dụng đất diện tích 200m2 , thửa đất số 270, tờ bản đồ số P7-30, đất ở tại đô thị, địa chỉ thửa đất: Tổ 9A, thị trấn S, huyện S, tỉnh Lào Cai (nay là tổ 4, phường S, thị xã S, tỉnh Lào Cai), đã được cấp GCNQSDĐ số BP 253784, số vào sổ CH 00512 do UBND huyện S cấp ngày 21/12/2018 cho ông Nguyễn Thế H, bà Nguyễn Thị K, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện S đăng ký biến động do ông H, bà K tặng cho con trai là Nguyễn Việt A ngày 24/12/2018; chuyển nhượng cho ông Phan Văn T, bà Nguyễn Thị M ngày 25/12/2018. Theo đề nghị của cụ S, Tòa án đã ban hành Quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá. Biên bản định giá tài sản ngày 18/8/2023 Hội đồng định giá đã xác định giá trị thửa đất như sau: Diện tích 200 m2 x 25.000.000 đồng/m2 = 5.000.000.000 đồng (Bằng chữ: Năm tỷ đồng)
Đối với tài sản trên diện tích đất tranh chấp (nhà gỗ, phần bán mái lợp Fibroximang), các đương sự không ai yêu cầu định giá lại, vì vậy xác định giá trị theo kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản thành lập theo Quyết định của TAND thị xã S có giá trị là 13.098.552 đồng (Mười ba triệu không trăm chín mươi tám nghìn năm trăm năm mươi hai đồng).
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm ông T, bà M nhất trí bồi thường cho cụ S toàn bộ giá trị tài sản trên diện tích đất tranh chấp (nhà gỗ, phần bán mái lợp Fibroximang) có giá trị là 13.098.552 đồng. Vì vậy, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về việc buộc ông T bà M phải bồi thường cho cụ S số tiền là 13.098.552 đồng.
Đối với yêu cầu yêu cầu của cụ S về việc buộc ông H, bà K phải bồi thường thiệt hại số tiền 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng), xét thấy: Sau khi được cấp GCNQSDĐ, ông H, bà K đã tặng cho anh Viết Anh, anh Viết Anh đã chuyển nhượng cho ông T, bà M và đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015 thì yêu cầu của cụ S về việc bồi thường thiệt hại là có căn cứ. Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của cụ S là không đúng, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cụ S. Do ông H, bà K là người có lỗi nên phải bồi thường thiệt hại cho cụ S số tiền là 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng) là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[4] Từ những phân tích trên, xét thấy nội dung kháng cáo của bị đơn cụ Đinh Thị S là có căn cứ chấp nhận, cần sửa một phần Bản án sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 12/01/2023 của Tòa án nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai, chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn cụ S, buộc ông H, bà K phải bồi thường thiệt hại cho cụ S số tiền 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng).
[5] Về chi phí tố tụng:
Về chi phi xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tại cấp sơ thẩm: Các đương sự không có ý kiến gì, không kháng cáo nên HĐXX phúc thẩm không xem xét, giữ nguyên theo Bản án sơ thẩm.
Về chi phí định giá tài sản tại cấp phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên cụ S phải không chịu tiền chi phí định giá tài sản tại cấp phúc thẩm. Ông H, bà K phải chịu tiền chi phí định giá tài sản tại cấp phúc thẩm là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Xác nhận cụ S đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản nên buộc ông H, bà K trả cho cụ S số tiền này.
[6] Về án phí:
Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bị đơn cụ Đinh Thị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Văn T, bà Nguyễn Thị M về việc buộc cụ S phải trả lại đất, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, do cụ S là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Nguyên đơn ông Phan Văn T, bà Nguyễn Thị M phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với số tiền trị giá tài sản trên đất phải trả cho cụ Đinh Thị S; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thế H, bà Nguyễn Thị K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với số tiền phải bồi thường thiệt hại cho cụ Đinh Thị S theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên người kháng cáo cụ Đinh Thị S không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, do cụ S được miễn tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
[Nguồn: Bản án số 14/2023/DS – PT ngày 24/8/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 14/2023/DS – PT
…………….
Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn