Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu,chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan làm trong thời hạn luật định, có hình thức, nội dung và phạm vi kháng cáo phù hợp với quy định tại các Điều 271, 272 và 273 của BLTTDS năm 2015; Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện H làm trong thời hạn luật định, có hình thức, nội dung và phạm vi kháng nghị phù hợp với quy định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[1.2] Đối với yêu cầu rút toàn bộ kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M. Hội đồng xét xử xét thấy việc rút kháng cáo của bà M là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc và không trái đạo đức xã hội nên chấp nhận việc rút kháng cáo của bà M và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị M.

[2] Xét yêu cầu kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, kháng cáo của nguyễn đơn bà bà Nguyễn Thị Thu N, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Đối với yêu cầu về việc hủy 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 619357 và số AO 619357 của với thửa đất số 40, thửa đất số 41 tờ bản đồ số 34 tại ấp CL, xã TB, huyện H, tỉnh Bình Phước được UBND huyện H cấp cho bà Thị X ngày 06/8/2014:

Căn cứ vào lời khai của các đương sự cùng hồ sơ cấp trích lục đất đai ngày 30/6/2020 thì Thửa đất số 40, 41 tờ bản đồ số 34 có nguồn gốc như sau:

Năm 1999, hộ ông Sơn C khai phá và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 2743m2 tại ấp CL, xã TB, huyện B (nay là huyện H), tỉnh Bình Phước. Tại phiên tòa, bà N cho rằng diện tích đất này, sau khi bà N về chung sống với ông Sơn H1 mới khai phá là không có căn cứ, không được chấp nhận.

Năm 2003, ông Sơn C chết thì năm 2007 bà Thị X, ông Sơn H1 và bà N đã có thỏa thuận về việc phân chia di sản thừa kế thửa đất trên như sau: ông Sơn H1 được chia 1.500m2 , bà Thị X được chia diện tích còn lại là 1.243m2 . Sau khi đo đạc, diện tích đất mà bà Thị X được chia có diện tích là 1249m2 và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Thị X ngày 18/10/2007 còn diện tích đất còn lại được cấp GCNQSDĐ cho ông H1 bà N là 1547 m2 . Việc thỏa thuận phân chia tài sản thừa kế của ông Sơn C để lại được lập với sự đồng ý của bà Thị X, ông Sơn H1 và bà N và sự chứng thực của UBND xã TB. Bà N cho rằng bà không tham gia cũng không biết có sự thỏa thuận này là không có căn cứ, không đưa ra được căn cứ chứng minh. Tại phiên hòa giải ngày 17/9/2020, bà N khai “tôi thừa nhận và công nhận việc chia di sản thừa kế giữa bà Thị X, ông Sơn H1 và tôi sau khi ông Sơn C chết”. Như vậy, có căn cứ cho rằng thửa đất 00 tờ bản đồ số 00 với diện tích đất 1249m2 tại ấp CL, xã TB, huyện H, tỉnh Bình Phước đã được cấp giấy GCNQSDĐ số AK767898 ngày 18/10/2007 cho bà Thị X là tài sản riêng của bà Thị X.

Năm 2008, bà Thị X làm thủ tục tách thửa do mở đường. Thửa đất 00 tờ bản đồ số 00 của bà Thị X được tách thành 02 thửa là thửa số 40 tờ bản đồ số 34 với diện tích là 279,1m2 , thửa 41 tờ bản đồ số 34 với diện tích là 848,3m2 và đã được cấp giấy GCNQSDĐ cho hộ bà Thị X ngày 12/02/2009. UBND huyện căn cứ vào việc tại đơn đăng ký biến động ghi “chủ sử dụng đất: hộ bà Thị X” trong khi tại phần nội dung đăng ký biến động bà X ghi “tách thửa do mở đường” để tách thửa, cấp giấy CNQSDĐ mới và chuyển từ tài sản cá nhân sang tên “hộ” là không phù hợp, không đúng ý trí của bà Thị X. Việc này được chứng minh khi năm 2014 bà X đã làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển từ hộ gia đình sang tài sản cá nhân của bà Thị X. Năm 2014, UBND huyện H cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ hộ sang tài sản cá nhân của bà Thị X là đúng với nguồn gốc, đúng người sử dụng đất, đúng ý trí của bà X. Việc có hay không sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình và Văn bản thỏa thuận giữa ông Sơn H1 và bà Thị X ngày 25/7/2014 được lập tại Văn phòng công chứng B không ảnh hưởng đến việc xác định đây là tài sản cá nhân của bà X.

Yêu cầu hủy 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 619357 và số AO 619357 đối với thửa đất số 40, thửa đất số 41 tờ bản đồ số 34 tại ấp CL, xã TB, huyện H, tỉnh Bình Phước được UBND huyện H cấp cho bà Thị X ngày 06/8/2014 của bà N không được chấp nhận.

[2.2] Đối với yêu cầu tuyên bố Văn bản thỏa thuận giữa ông Sơn H1 và bà Thị X ngày 25/7/2014 được lập tại Văn phòng công chứng B là vô hiệu. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Ngày 25/7/2014, ông Sơn H1 và bà Thị X lập văn bản thỏa thuận tại Văn phòng công chứng B có nội dung: Thửa đất số 40 tờ bản đồ số 34 với diện tích 279,1m2 có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 619357 và thửa đất số 41 tờ bản đồ số 34 với diện tích 848,3m2 có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 619357 tại ấp CL, xã TB, huyện H, tỉnh Bình Phước là tài sản riêng của bà Thị X, không còn là tài sản của hộ gia đình.

Năm 2014, khi thực hiện giao dịch (thỏa thuận), ông Sơn H1 và bà Thị X có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự. Nguyên đơn cho rằng năm 2008, ông Sơn H1 bị tại nạn giao thông và đã bị mất năng lực hành vi dân sự. Nhưng căn cứ kết luận giám định pháp y tâm thần ngày 03/8/2018 của Viện pháp y tâm thần trung ương Biên Hòa thì năm 2008 ông Sơn H1 bị chấn thương sọ não, có tình trạng sa sút trí tuệ và đến năm 2018 mới bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 04/2018/QĐST-VDS ngày 14/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện H. Như vậy, tại thời điểm giao dịch (thỏa thuận) ngày 25/7/2014 thì không có tài liệu, chứng cứ nào của cơ quan có thẩm quyền xác định ông Sơn H1 bị mất năng lực hành vi dân sự. Bà N cho rằng ông H1 khi thực hện giao dịch bị mất năng lực hành vi dân sự là không có căn cứ, không được chấp nhận

Ông H1 và bà Thị X tham gia giao dịch là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc.

Tuy nhiên, tại thời điểm giao dịch, 02 thửa đất nêu trên đã được cấp giấy CNQSDĐ cho hộ bà Thị X. Và tại thời điểm được cấp giấy CNQSDĐ năm 2009 thì hộ bà Thị X gồm có chủ hộ – ông Sơn C đã chết, bà Thị X, ông Sơn H1, bà Nguyễn Thị Thu N và cháu Sơn Thị Trúc M1. Nhưng khi tiến hành thỏa thuận chuyển tài sảng đang đứng tên hộ gia đình sang tên cá nhân bà X thì chỉ có ông H1 và bà X thỏa thuận mà không có sự đồng ý của bà N là thành viên đã thành niên khác trong hộ.

Như vậy, ông H1, bà X tự ý thỏa thuận, định đoạt tài sản chung mang tên hộ gia đình mà không có sự thống nhất, đồng ý của các thành viên khác là trái quy định của pháp luật. Bà N yêu cầu tuyên bố Văn bản thỏa thuận giữa ông Sơn H1 và bà Thị X ngày 25/7/2014 được lập tại Văn phòng công chứng B vô hiệu là có căn cứ, được chấp nhận. Văn phòng công chứng B yêu cầu công nhận Văn bản thỏa thuận giữa ông Sơn H1 và bà Thị X ngày 25/7/2014 không được chấp nhận.

[2.3] Đối với yêu cầu tuyên bố di chúc của bà Thị X lập ngày 18/8/2014 tại Văn phòng công chứng B vô hiệu, thấy rằng:

Ngày 18/8/2014, bà Thị X lập di chúc đã được công chứng chứng thực tại Văn phòng công chứng B. Khi lập di chúc bà X trong trạng thái minh mẫn, sáng suốt, không bị đe dọa, cưỡng bức, nội dung di chúc không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội, hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật. Tại biên bản xác minh ngày 04/01/2021, chính quyền ấp SN xác nhận tại thời điểm năm 2013 – 2014, mặc dù bà X thỉnh thoảng có uống rượu nhưng không say xỉn, tinh thần tỉnh táo, và bà X mặc dù viết nguệch ngoạc nhưng bà X biết chữ, biết viết. Bà N cho rằng bà Thị X lập di chúc khi đã già, không có đủ tỉnh táo để lập di chúc nhưng không có căn cứ chứng minh nên không được chấp nhận. Di chúc của bà Thị X là hợp pháp theo Điều 630 của BLDS 2015. Yêu cầu khởi kiện của bà N về phần này không được chấp nhận.

Yêu cầu độc lập của chị M về việc công nhận di chúc của bà Thị X là có căn cứ, được chấp nhận.

[2.4] Đối với yêu cầu độc lập của bà M về việc thừa kế tài sản của bà Thị X:

Di chúc của bà Thị X ngày 18/8/2014 có nội dung như sau: Bà Thị X có quyền sử dụng đất thửa số 40 tờ bản đồ số 34 với diện tích là 279,1m2 và thửa 41 tờ bản đồ số 34 với diện tích là 848,3m2 . Tài sản này bà Thị X để lại cho ông Sơn H1 và Sơn Thị Trúc M1 được một phần của 02 quyền sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liến với đất trên như sau: thửa một chiều Ngang 8m chiều dài song song với cạnh giáp thửa 38 cho đến hết đất giáp với thửa 33, vị trí giáp thửa 38 (trong đó có 50m2 đất ONT). Thửa hai chiều Ngang 9m, chiều dài song song cạnh giáp thửa 43 kéo dài hết đất giáp mương, vị trí giáp thửa 43. Chị Nguyễn Thị M được được toàn bộ phần còn lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất sau khi chia cắt xong phần đất cho ông H1 và cháu M1.

Căn cứ theo kết quả đo đạc ngày 06/8/2020 và kết quả khôi phục mốc ranh của Công ty TNHH MTV đo đạc bản đồ TT thì tổng diện tích 02 thửa đất 40 và 41 là 1.127,4m2 . Theo di chúc thì ông H1 và cháu M1 sẽ được chia 531m2 tương đương 47,1%. Ông H1 và cháu M1 là đồng sở hữu tương đương ông H1 và cháu M1 mỗi người được chia 47,1 : 2 = 23,55% = 531m2 : 2 = 265,6m2 , chị M được 100%-47,1%. = 52,9%.

Tuy nhiên, theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 04/2018/QĐST[1]VDS ngày 14/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện H thì ông H1 là người bị mất năng lực hành vi dân sự nên ông H1 là người không có khả năng lao động. Theo Điều 644 của Bộ luật dân sự 2015 quy định:

“Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”

Theo biên bản xác minh ngày 03/12/2020 thì bố mẹ của bà Thị X đã chết. Bà Thị X chỉ có 01 người con là ông H1. Vậy ông H1 là người thừa kế theo pháp luật duy nhất của bà Thị X tức là nếu chia theo pháp luật thì ông H1 là người được hưởng toàn bộ di sản bà Thị X để lại. Và 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu chia theo pháp luật là 2/3 trong tổng số tài sản bà X để lại tức là 2/3 của 1.127,4m2 = 751,6m2 .

Tuy nhiên, theo di chúc bà Thị X để lại chia cho ông H1 là 265,6m2 ít hơn 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật. Vì vậy, ông H1 vẫn được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật tức là được hưởng 751,6m2 .

Diện tích chị M, cháu M1 được hưởng là 1.127,4m2 – 751,6m2 =375,8m2

Theo di chúc, cháu M1 được hưởng 23,55%, chị M được hưởng 52,9% tức chị M được hưởng nhiều hơn cháu M1 là 52,9% : 23,55% = 2,2 lần.

Vậy số tiện tích còn lại 375,8m2 được chia như sau:

Cháu M1 được chia là 375,8m2 : (1 + 2,2) = 117,4m2

Chị M được chia là 375,8m2 – 117,4m2 = 258,4m2

Do thửa đất số 41 có căn nhà hiện nay ông Sơn H1 và vợ là bà N đang sinh sống và đây là nơi ở duy nhất của ông H1, ông H1 không thể lao động được nên cần chia cho ông Sơn H1 được hưởng quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 41 tờ bản đồ số 34. Do căn nhà được xây dựng gần hết bề Ngang của thửa đất 41 nên giao cho ông Sơn H1 được sử dụng, quản lý toàn bộ thửa đất số 41, ông H1 phải trả giá trị của phần tài sản chênh lệch là giá trị của 848,3m2 – 751,6m2 = 96,7m2 cho người được hưởng phần này.

Theo quy định tại Quyết định số 27/2020/QĐ-UBND ngày 16/10/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước thì hạn mức tách thửa đối với đất nông nghiệp là 1000m2 . Như vậy, thửa đất số 40 không đủ điều kiện để tách thửa và có diện tích gần bằng diện tích chị M được hưởng nên cần chia cho chị M diện tích đất thuộc thửa đất này.

Vì vậy cần chia cho mà chị M được hưởng quyền sử dụng đất 279,1m2 thửa đất số 40 tờ bản đồ số 34 cùng các tài sản trên đất. Do diện tích thửa đất 40 mà chị M đựơc sử dụng nhiều hơn số tài sản chị M được chia là 279,1m2 – 258,4m2 = 20,7m2 nên chị M có trách nhiệm trả giá trị của 20,7m2 này cho người được hưởng.

Do ông H1 và chị M được nhận hiện vật nên ông H1 và chị M phải có trách nhiệm trả cho cháu M1 giá trị phần cháu M1 được chia.

Theo kết quả định giá của Công ty TNHH Thẩm định giá ĐL thì thửa đất số 40 có giá là 1.870.000đ/1m2 , thửa đất số 41 có giá là 2.900.000đ/1m2 . Như vậy:

Ông H1 phải trả cho cháu M1 giá trị tài sản là: 96,7m2 x 2.900.000đ/1m2 = 280.430.000đ.

Chị M phải trả cho cháu M1 giá trị tài sản là 20,7m2 x 1.870.000đ/1m2 = 38.709.000đ.

Giá trị tài sản chị M được chia là: 258,4m2 x 1.870.000đ/1m2 = 483.208.000đ.

Giá trị tài sản ông H1 được chia là 751,6m2 x 2.900.000đ/1m2 = 2.179.640.000đ.

[2.5] Trong quá trình giải quyết vụ án, Viện kiểm sát nhân dân huyện H cho rằng Tòa án nhân dân huyện H sử dụng bản đồ đo vẽ hiện trạng thửa đất ngày 06/8/2020 của Công ty TNHH MTV đo đạc bản đồ TT nhưng chưa được Chi nhánh Văn phòng đất đai huyện H, cũng như Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh phê duyệt để làm căn cứ giải quyết vụ án là không đúng quy định pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy việc sử dụng bản đồ đo đạc này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên kháng nghị của đại diện Viện kiểm sát về phần này không được chấp nhận.

[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước và không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu N và chấp nhận việc rút toàn bộ kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 41/2022/DS-ST ngày 30/09/2022 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước.

[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu N không được Hội đồng xét xử chấp nhận nên bà N phải chịu theo quy định. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M rút kháng cáo tại phiên tòa nên phải chịu án phí theo quy định.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[Nguồn: Bản án số 110/2023/DS-PT ngày 25/3/2022 của TÒA ÁN NHÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 110/2023/DS-PT

…………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan