Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Tranh chấp liên quan đến tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và yêu cầu công nhận quyền sở hữu tài sản

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Tranh chấp liên quan đến tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và yêu cầu công nhận quyền sở hữu tài sản

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Đơn kháng cáo của phía nguyên đơn làm trong hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung kháng cáo:

[2.1] Căn nhà số I C, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh do bà Phạm Thị Bích N đứng tên sở hữu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L556557 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp ngày 07/10/1998. Bà N có tất cả 11 người con bao gồm: Nguyễn Việt C (sinh năm 1955), Nguyễn Công Q (sinh năm 1957), Nguyễn Thị Bích T4 (sinh năm 1959), Nguyễn H6 (sinh năm 1962), Nguyễn Kiều L1 (sinh năm 1962), Nguyễn Thị Lệ T5 (sinh năm 1963), Nguyễn Thị Lan H7 (sinh năm 1965), Nguyễn Thị Mai T6 (sinh năm 1967), Nguyễn Quốc H5 (sinh năm 1968), Nguyễn Thị Thu H1 (sinh năm 1969), Nguyễn Tiến L (sinh năm 1971).

Vào ngày 08/07/2005, bà Phạm Thị Bích N lập hợp đồng công chứng tại Phòng C2, Thành phố Hồ Chí Minh số 021002/HĐ-TCN tặng cho toàn bộ căn nhà số I C, Phường D, quận T cho hai người con là Nguyễn Quốc H5 và Nguyễn Thị Thu H1.

Căn cứ theo hợp đồng này, cơ quan quản lý nhà đất tại địa phương đã công nhận tính hợp pháp và chuyển quyền sở hữu tài sản là căn nhà số I C, Phường D, quận T để ông H5, bà H1 cùng đứng tên sở hữu, tại thời điểm này ngoài ông L, các con khác của bà N đều tôn trọng ý chí của mẹ, không có ý kiến phản đối. Sau đó, vào ngày 04/3/2014 tại Văn phòng C3, ông Nguyễn Quốc H5 đã lập hợp đồng tặng cho phần quyền lợi của mình nhận từ mẹ tại nhà số I C, Phường D, quận T cho bà Nguyễn Thị Thu H1, việc tặng cho tài sản thể hiện đúng ý chí của ông H5 và bà H1 đã thực hiện việc kê khai tài sản được thừa hưởng tại cơ quan quản lý nhà đất tại địa phương, sau đó đã nộp lệ phí trước bạ, sang tên để đứng trọn chủ quyền tại căn nhà của mẹ là bà Phạm Thị Bích N và anh ruột là ông Nguyễn Quốc H5 đã tặng cho.

[2.2] Trình bày trong đơn khởi kiện và của người đại diện tại phiên tòa, nguyên đơn cho rằng tại thời điểm tặng cho tài sản là căn nhà đối với ông Nguyễn Quốc H5, bà Nguyễn Thị Thu H1, tình trạng sức khỏe của bà Phạm Thị Bích N rất yếu, không còn minh mẫn, bị lừa dối ký hợp đồng tặng cho tài sản vì không làm chủ được hành vi, tuy nhiên theo văn bản trả lời của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm tra sức khỏe, ban hành văn bản, quyết định có liên quan đến chuyển giao tài sản đều xác định: Tại thời điểm giao dịch, ký các văn bản về chuyển giao tài sản như đã được liệt kê tại phần nội dung bản án, tình trạng sức khỏe của bà Phạm Thị Bích N bình thường, tự làm chủ được hành vi của mình, chữ ký tên của bà N, của ông H5 trong các văn bản công chứng đều do từng đương sự tự trực tiếp thực hiện và không bị đe dọa hoặc bị ép buộc vì thế yêu cầu của ông Nguyễn Tiến L là nguyên đơn trong vụ án yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng do hai đương sự trên đã thực hiện bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của Luật không được Tòa án chấp nhận. Hiệu lực của các văn bản công chứng, chứng thực tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với quyền sở hữu căn nhà số I C, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đối với bà Nguyễn Thị Thu H1 được giữ nguyên giá trị.

[2.3] Sau khi kết thúc phần tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, theo yêu cầu của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về việc thu thập bổ sung kết quả giám định chữ ký của bà Phạm Thị Bích N, ông Nguyễn Quốc H5 trong các văn bản tố tụng được lưu trong hồ sơ vụ án và được Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận. Theo Quyết định trưng cầu giám định số 3567/2021/QĐ-TCGĐ ngày 14/6/2021 và số 9583/2021/QĐ-TCGĐ ngày 29/11/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh và Phòng K – Công an Thành phố H đều có chung kết luận như sau:

Các chữ ký của ông H5 và bà N trong các văn bản công chứng là chữ ký thật.

Từ kết luận trên cho thấy việc thu thập, đánh giá chứng cứ của Hội đồng xét xử sơ thẩm là khách quan, không trái quy định pháp luật.

Đối với nội dung tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn cho rằng có lát gạch sân sau trong thời gian cư trú tại căn nhà nhưng cấp sơ thẩm không xét, Hội đồng xét xử xét thấy nguyên đơn yêu cầu hủy văn bản công chứng vô hiệu, tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chỉ trình bày và không có yêu cầu xem xét vấn đề này đồng thời cũng không cung cấp các chứng cứ, do đó cấp sơ thẩm không xét là phù hợp luật định.

[3] Xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H1:

Xét yêu cầu công nhận quyền sở hữu tài sản đối với căn nhà số I C, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh của bị đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập và diễn giải phần trên thể hiện: Vào ngày 13/4/2014 bà Nguyễn Thị Thu H1 đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại địa phương công nhận quyền sở hữu cá nhân đối với căn nhà số I C, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh theo các bản hợp đồng tặng cho tài sản của bà Phạm Thị Bích N và ông Nguyễn Quốc H5. Bà H1 đã thực hiện việc kê khai tài sản, đóng lệ phí trước bạ sang tên để được cấp quyền sở hữu cá nhân đối với tài sản này.

Như vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn về việc công nhận quyền sở hữu đối với căn nhà được tặng cho từ mẹ và anh ruột được chấp nhận. Hiện nay căn nhà trên do ông Nguyễn Tiến L đang chiếm giữ và cư ngụ, vì vậy cần buộc ông Nguyễn Tiến L phải di dời và bàn giao quyền sở hữu tài sản là căn nhà số I C, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cho bà Nguyễn Thị Thu H1 ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luât .

[4] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử xét thấy bản án sơ thẩm là có căn cứ, do đó không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đối với các nội dung khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xet xử không xét.

Do không được chấp nhận kháng cáo, ông Nguyễn Tiến L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo luật định.

[Nguồn: Bản án số 444/2023/DS-PT ngày 13/7/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 444/2023/DS-PT

———–

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan