NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk; căn cứ vào kết quả trông tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của đại diện theo ủy quyền của bị đơn làm trong hạn luật định nên vụ án được thụ lý, giải quyết theo trình tự phúc thẩm là đúng quy định.
[2] Xét kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn thấy rằng:
Đối với các nội dung tại phần Quyết định Bản án sơ thẩm đã tuyên xử chấp nhận một phần đơn khởi kiện của của ông Mai Văn T:
Tuyên buộc UBND xã Y phải bồi thường cho ông Mai Văn T và bà Nguyễn Thị L số tiền là 170.089.500đ. \
Buộc Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam phòng giao dịch huyện S phải bồi thường ông Mai Văn T và bà Nguyễn Thị L số tiền là 170.089.500đ.
Bác một phần yêu cầu của ông Mai Văn T về số tiền buộc UBND xã Y và Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam phòng giao dịch huyện S phải bồi thường ông là 226.786.000đ và bác số tiền ông T yêu cầu bà H phải trả tiền trông coi đất là 93.075.000đ.
Bác yêu cầu phản tố của bị đơn bà Bùi Thị H về việc yêu cầu ông Mai Văn T phải trả tiền thuê đất từ năm 2001 đến năm 2018 số tiền 132.588.000đ
Đình chỉ phần khởi kiện đối với bà Phạm Thị M
Do các quyết định không có kháng cáo, kháng nghị nên HĐXX không đặt ra để giải quyết.
Xét kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Bùi Thị H là ông Nguyễn Văn B yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn T về việc buộc bà Bùi Thị H trả chi phí cải tạo và san ủi đất cho ông Mai Văn T, bà Nguyễn Thị L với số tiền 57.000.000đ, vì thực tế bà H không thuê ông T san ủi mà do ông T tự thuê máy về san ủi nên bà H không chấp nhận trả tiền san ủi đất cho ông T. HĐXX xét thấy: Mặc dù các thửa đất ông T sử dụng là do trúng đấu giá của UBND xã Y và Ngân hàng tổ chức đấu giá, giữa ông T và bà H không có văn bản thỏa thuận nào về việc thuê đất hay giao cho ông T trông coi đất từ năm 2001 đến năm 2017 nhưng sau khi nhận đất, ông T đã bỏ tiền và công sức cải tạo từ đất đồi, sỏi đá thành đất ruộng lúa 02 vụ, nâng cao giá trị thửa đất như hiện trạng hiện nay. Chi phí san ủi đất, cải tạo đất là 72.513.823đ, các chi phí này đã được người làm chứng ông Phan Tiến D, ông Doãn Văn L xác nhận là đúng và tương ứng với kết quả định giá. Tuy nhiên, ông T chỉ yêu cầu bà H phải trả cho ông T 57.000.000đồng chi phí san ủi, cải tạo đất là có căn cứ, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về phần này là có cơ sở. Vì vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
[4] Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Mai Văn T phải chịu 15.993.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch được khấu trừ vào số tiền ông T đã nộp tạm ứng án phí là 11.312.000đ theo biên lai thu số 0006577 ngày 08/01/2019 và số tiền tạm ứng án phí là 5.650.000đ theo biên lai số 0003294 ngày 15/6/2021. Trả lại cho ông Mai Văn T số tiền là 969.000đ.
Buộc UBND xã Y và Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam Phòng Giao dịch huyện S phải chịu tiền án phí dân sự có giá ngạch là 8.504.000đ.
Buộc bà Bùi Thị H phải chịu tiền án phí dân sự có giá ngạch là 9.479.000đ được khấu trừ số tiền 3.314.000đ bà H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003244 ngày 11/6/2020. Cấp sơ thẩm không ghi cụ thể số tiền bà H phải chịu sau khi khấu trừ 3.314.000đ. Vì vậy, cấp phúc thẩm cần ghi lại cụ thể để thuận lợi cho việc thi hành án.
Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Bùi Thị H là ông Nguyễn Văn B phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm ông Nguyễn Văn B đã nộp theo biên lai thu số 0010115 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh Đăk Lăk.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[Nguồn: Bản án số 173/2022/DS-PT ngày 12/9/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 173/2022/DS-PT
…………….
Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn