NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thu H làm trong hạn luật định nên thủ tục kháng cáo hợp lệ.
[2] Về nội dung giải quyết kháng cáo:
Nguồn gốc nhà đất tọa lạc tại 49B/1 đường Nguyễn Văn Bứa thuộc sở hữu của vợ chồng ông Th1 chết năm 2010 và bà Th2 chết năm 2012.
Ông Th1 và bà Th2 có các người con gồm bà H, ông Ph (hiện nay ở Mỹ), ông H1, ông D, ông Ph1 (chết, có người thừa kế thế vị là bà M), căn nhà này hiện ông H1 đang đứng tên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất với tư cách là người đại diện gia đình vào năm 2013.
Đến năm 2018 bà H, ông D, bà M có ký giấy thỏa thuận để ông H1 bán nhà, năm 2018 thì ông H1 có bán căn nhà trên cho bà V với giá 8.8000.000.000đồng có đưa cho bà H 200.000.000đồng, trong đó bà H 100.000.000đồng và giữ giùm cho ông Ph 100.000.000đồng, đưa cho ông D, bà M mỗi người 100.000.000đồng, số tiền còn lại thì ông H1 dùng gửi ngân hàng và mua căn nhà khác đứng tên riêng ông H1. Phía các anh chị em trong gia đình không đồng ý vì cho rằng, việc ông H1 mua tài sản và gửi tiền vào ngân hàng mà đứng tên riêng ông H1 là không đúng ý chí của các anh em là đồng sở hữu tài sản, từ đó các bên đã phát sinh tranh chấp.
Xét thấy:
Theo Điều 651, Điều 652 của Bộ luật Dân sự, thì bà H, ông D, bà M, ông H1 có lập văn bản thỏa thuận về thừa kế ngày 14/6/2018 để chia di sản thừa kế, trong quá trình lập văn bản này thiếu ông Ph là một trong những người đồng thừa kế, việc thiếu một bên chủ thể đã không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật như đã viện dẫn. Tòa án cấp sơ thẩm hủy văn bản này là có căn cứ, hợp pháp.
Theo Điều 167 Luật Đất đai năm 2013, Điều 117, Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định về điều kiện giao dịch hợp đồng dân sự và quy định về các giao dịch dân sự bị vô hiệu khi không tuân thủ về hình thức, không đúng nội dung, không đủ về chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Trong trường hợp này, ông Ph là người đồng thừa kế, cùng đồng sở hữu đối với tài sản là nhà đất liên quan đến tranh chấp nêu trên, nhưng không có sự tham gia của ông Ph trong giao dịch dân sự, do đó các giao dịch tranh chấp nêu trên đều vô hiệu theo luật định.
Theo Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định về việc giải quyết hậu quả khi hợp đồng vô hiệu, các bên đương sự phải giao trả những gì đã nhận đồng thời bồi thường thiệt hại khi có lỗi, phía ông H1 có chứng minh là ông Ph có gửi mail cho ông thể hiện nội dung là cũng có đồng ý với việc nhận 100.000.000đồng, tuy nhiên theo quy định của pháp luật các văn bản thể hiện ý chí của chủ thể giao dịch phải bằng văn bản được thực hiện tại các cơ quan công chứng, chứng thực, thực tế thì giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng nhà đất các bên chưa qua cơ quan công chứng, chứng thực, chưa thực hiện các thủ tục chuyển tên, đăng bộ theo luật định.
Tại phiên tòa phúc thẩm bà V khai, đã giao đủ số tiền 8.800.000.000đồng cho ông H1 nhưng chưa nhận được nhà, chưa thực hiện các thủ tục công chứng, chứng thực, sang tên đăng bộ v.v..
Xét việc nhận chuyển nhượng của bà V không biết trước những anh em của ông H1 là ai, nên lỗi thuộc về phía ông H1 và những người đồng ý cho ông H1 mua bán nhà và nhận tiền, do đó cần buộc ông H1, ông D, bà H, bà M, phải bồi thường thiệt hại thực tế theo quy định của pháp luật như điều luật đã viện dẫn.
Cụ thể: Số tiền mua bán nhà là 8.800.000.000đồng, theo kết quả Chứng thư thẩm định giá số 0101/2022/CT-VATC năm 2022 của Công ty cổ phần thẩm định giá và dịch vụ tài sản Toàn Cầu, thì giá trị thực tế là 12.322.000.000đồng, như vậy số tiền trượt giá là 3.522.000.000đồng.
Ông H1 nhận số tiền mua bán nhà của bà V là 8.800.000.000đồng nên ông H1 phải trả lại cho bà V số tiền 8.800.000.000đồng và bồi thường số tiền thiệt hại do trượt giá là 3.522.000.000đồng.
Bà H nhận của ông H1 số tiền 200.000.000đồng, nên bà phải trả lại cho ông H1 số tiền 200.000.000đồng và số tiền trượt giá là 80.045.454đồng.
Ông D, bà M, mỗi người nhận của ông H1 100.000.000đồng, nên ông D, bà M mỗi người phải trả cho ông H1 số tiền 100.000.000đồng và mỗi người trả lại cho ông H1 số tiền trượt giá 40.022.727đồng.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông H1 chịu số tiền 102.440.000đồng.
Bà H được miễn nộp án phí do là người cao tuổi, hoàn trả cho bà H số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí DSST theo Biên lai thu số AA/2019/0024973 ngày 15/11/2019 của Cục Thi hành án Dân sự Tp.HCM, hoàn trả cho bà H số tiền 32.400.000đồng tạm ứng án phí DSST theo Biên lai thu số AA/2017/0045013 ngày 27/02/2019 của Cục Thi hành án Dân sự Tp.HCM, hoàn trả cho bà H số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí DSST theo Biên lai thu số AA/2019/0045771 ngày 14/3/2020 của Cục Thi hành án Dân sự Tp.HCM.
Ông D, bà M mỗi người chịu số tiền 2.001.136 đồng.
Bà V chịu số tiền 300.000đồng, được khấu trừ số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí DSST theo Biên lai thu số AA/2019/0092110 ngày 22/7/2020 của Cục Thi hành án Dân sự Tp.HCM, như vậy bà V đã nộp xong án phí DSST.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà H không phải chịu.
[5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.
[Nguồn: Bản án phúc thẩm số 134/2022/DS-PT Ngày 16/3/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn Bản án: 134/2022/DS-PT