NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện và đầy đủ chứng cứ hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Về nguồn gốc quyền sử dụng đất và quá trình kê khai, đăng ký sử dụng thửa đất: Theo Bản trích lục địa bộ ngày 15/8/1936 thuộc Sở Địa chính, tỉnh Thừa Thiên Huế – Đại Nam Trung Kỳ Chánh phủ thể hiện cố Nguyễn Thị T2 (mẹ của cụ Lê P) đứng tên thửa đất số hiệu A230, diện tích 628m2 tại thôn B, xã L, huyện P2, tỉnh Thừa Thiên Huế (sau đây gọi tắt là thửa A230). Các đương sự đều xác nhận, khi cố T2 chết (năm 1957), cụ Lê P (con duy nhất của cố T2) thừa hưởng, sử dụng diện tích đất trên. Năm 1982, cụ P cho ông Huỳnh Trọng Ng mượn thửa đất trên làm nhà ở, hai bên cam kết khi nào cụ P lấy lại thì ông Ng sẽ trả, việc cho mượn đất không lập thành văn bản. Do đó có đủ căn cứ xác định diện tích đất đang tranh chấp tại thửa A230 thuộc quyền sử dụng của cụ Lê P.
Quá trình sử dụng đất, ông Ng đã kê khai về nguồn gốc như sau: Tại Giấy kê khai nhà ở và đất ở ngày 02/01/1997, ông Ng kê khai đất là do ông bà để lại; tại tờ khai nguồn gốc đất thu hồi ngày 09/02/2004, ông Ng lại kê khai đất của cha có từ năm 1945 cho con Huỳnh Trọng Ng làm nhà năm 1983. Việc kê khai về nguồn gốc quyền sử dụng đất của ông Ng là không trung thực.
Năm 2004, Ủy ban nhân dân huyện P2 mở đường ven biển Cảnh Dương thu hồi 490,4m2 (một phần thửa A230) và có đền bù số tiền 17.654.000 đồng (ông Ng nhận số tiền này).]
[2] Xét kháng cáo của ông Huỳnh Trọng Ng, bà Tống Thị Đ1, anh Phạm Văn H4, chị Lê Thị B1, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Ông Ng cho rằng: Cụ P đã cho vợ chồng ông diện tích đất trên và ông đã nhiều lần hỗ trợ cho cụ P tiền và vàng nhưng không lập biên nhận. Tuy nhiên, nhiều lời khai của ông Ng không thống nhất, cụ thể mâu thuẫn về số lượng (có lúc khai giao 4 triệu đồng, 01 chỉ vàng có lúc khai giao 3 triệu đồng, 01 chỉ vàng) mâu thuẫn về số lần giao (có lúc khai giao 2 lần; có lúc khai giao 3 lần; có lúc khai giao 4 lần), mâu thuẫn về thời điểm giao (đối với 1 chỉ vàng: có lúc khai giao vào lần đầu tiên, có lúc khai giao năm 2000; có lúc khai giao năm 2001; có lúc khai giao năm 2004). Đối với tiền: Có lúc khai giao thời điểm năm 1998-1999; có lúc khai giao năm 1986, có lúc khai giao vào các năm 1984, 1987, 2001; có lúc khai giao vào năm 1984, 1987; có lúc khai giao vào các năm 1984, 1987, 2000; có lúc khai giao vào các năm 1998, 2000). Quá trình giải quyết vụ án, ông Ng cũng không cung cấp được các tài liệu chứng minh cho việc giao nhận tiền, vàng. Do đó, không có căn cứ để chứng minh cụ P đã cho ông Ng diện tích thửa đất A230. Đối với Giấy chuyển nhượng đất nhà ở ngày 10/3/2002, nội dung “…ông H3 (con cụ P) có mảnh đất hiện vợ chồng ông Ng đã ở từ lâu, nay ông H3 nhượng thẳng mảnh đất này cho vợ chồng ông Ng…”. Giấy này do ông Ng viết và đưa cho ông H3 ký tên. Ông H3 cho rằng trước khi ký giấy thì có hỏi và ông Ng có nói cụ P đã cho đất nên ông mới ký, còn ông không biết cụ P có cho đất ông Ng hay không, sau khi ký thì ông Ng đưa cho ông 500.000 đồng (sau đó ông H3 khai có nhận của ông Ng 350.000 đồng, còn ông Ng có nhiều lời khai đưa ông H3 500.000 đồng, sau đó xác nhận có đưa 500.000 đồng, nhưng ông H3 chỉ nhận 350.000 đồng). Ông Ng biết thửa đất trên của vợ chồng cụ P, nhưng tự lập giấy chuyển nhượng, nội dung đất của ông H3 chuyển nhượng cho vợ chồng ông Ng, còn ông H3 không được cụ P ủy quyền, nhưng lại ký tên định đoạt thửa đất là trái pháp luật. Do đó, Giấy chuyển nhượng đất nhà ở ngày 10/3/2002 vô hiệu.
[2.2] Hiện nay, diện tích thửa đất A230, Nhà nước đã thu hồi 490,4m2 vào năm 2004; diện tích đất còn lại ông Ng không sử dụng mà đã chuyển nhượng một phần cho anh Phạm Văn H4, chị Lê Thị B1 vào năm 2004; chuyển nhượng một phần cho ông Nguyễn Hữu N2, bà Tống Thị H6 vào năm 2006; phần diện tích còn lại ông Ng cho vợ chồng anh Trần Văn V2, chị Huỳnh Thị N4 vào năm 2006. Tại Biên bản xác minh ngày 02/10/2013, Ủy ban nhân dân xã L, huyện P2 xác định vợ chồng ông Ng không phải là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất tranh chấp nên việc họ ký giấy tay chuyển nhượng đất cho các hộ đang sử dụng (anh H4: Năm 2004, ông T3: Năm 2006) là trái pháp luật; mặt khác khi chuyển nhượng, đất đang có tranh chấp nên Ủy ban nhân dân xã không xác nhận việc chuyển nhượng đối với các hộ nêu trên.
Như vậy, tại thời điểm chuyển nhượng và tặng cho quyền sử dụng đất trên ông Ng không phải là chủ sử dụng đất, cụ P vẫn còn sống nhưng không có ý kiến của Cụ. Theo Biên bản đo đạc định giá ngày 25/12/2020, Hội đồng định giá xác định diện tích thửa đất còn lại là 113m 2 . Trong đó vợ chồng anh Phạm Văn H4, chị Lê Thị B1 đang sử dụng 30m2 (Thửa đất 150, ký hiệu I), vợ chồng anh Trần Văn V2, chị Huỳnh Thị N4 đang sử dụng 57m2 (Thửa đất số 151, ký hiệu II), anh Nguyễn Hữu T3 (con của ông Nguyễn Hữu N2, bà Tống Thị H6) đang sử dụng 26m2 (Thửa đất 152, ký hiệu III). Vì vậy, căn cứ vào Điều 255; Điều 256 của Bộ luật Dân sự năm 2005 chấp nhận yêu cầu đòi lại đất của nguyên đơn, buộc ông Ng và những người đang sử dụng diện tích đất trên phải trả lại đất cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối với tài sản trên đất, vợ chồng anh H4, chị B1 xây dựng 01 quán để bán bún và cơm; anh T3 (con của ông N2, bà H6) xây dựng 01 bể chứa nước. Việc xây dựng trên là không được cấp có thẩm quyền cho phép và diện tích đất đang tranh chấp nên cần buộc phải tháo dỡ.
[2.3] Đối với số tiền đền bù đất, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Năm 2004, Ủy ban nhân dân huyện P2 mở đường ven biển Cảnh Dương nên đã thu hồi 490,4m2 (một phần thửa A230) và đền bù số tiền 17.654.000 đồng. Tại thời điểm đền bù, ông Ng kê khai vào ngày 09/02/2004, nguồn gốc đất của cha có từ năm 1945 cho con Huỳnh Trọng Ng làm nhà năm 1983, do đó Nhà nước đã đền bù cho ông Ng số tiền trên. Việc kê khai của ông Ng về thửa đất A230 là không trung thực, làm cho UBND huyện P2 nhầm lẫn và đưa số tiền trên cho ông Ng. Xét thấy, tại thời điểm thu hồi đất, cụ P vẫn còn sống, lẽ ra Cụ là người được hưởng số tiền trên vì Cụ là người đang có quyền sử dụng diện tích đất bị giải tỏa. Do đó, ông Ng sau khi nhận khoản tiền trên, phải có nghĩa vụ trả số tiền này cho cụ P theo quy định tại Điều 280 của Bộ luật dân sự năm 2005, nhưng đến nay ông Ng vẫn không trả. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 305 của Bộ luật dân sự năm 2005 chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc ông Ng phải trả lại số tiền 17.654.000 đồng và lãi suất theo mức lãi suất cơ do Ngân hàng Nhà nước công bố theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 là 9%/năm, từ năm 2004 đến năm 2014 là 10 năm với tổng số tiền lãi là {(17.654.000 đồng x 9%/năm) x 10 năm} = 15.888.600 đồng.
[3] Từ những phân tích đánh giá chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Bản án sơ thẩm đã đánh giá chứng cứ và áp dụng các quy định của pháp luật để xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải trả lại tài sản là QSD đất và số tiền được bồi thường về đất cho nguyên đơn là có căn cứ đúng pháp luật.
Xét thấy: Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án và qua nhiều lần Bản án có hiệu lực thi hành sau đó bị kháng nghị giám đốc thẩm. Anh Phạm Văn H4 và chị Lê Thị B1 trong quá trình sử dụng đất nêu trên, vào ngày 23/9/2014 có nhận sang nhượng của ông Nguyễn Thanh Sông và bà Trần Thị Ánh diện tích đất là 182,7m2 (đất đã có giấy CNQSD đất và hợp đồng sang nhượng đã được chứng thực tại UBND xã). Sau khi nhận sang nhượng đất thì anh H4, chị B1 đã xây dựng nhà ở kiên cố. Thấy rằng nhà của anh H4, chị B1 xây dựng trên đất mua lại của ông Sông nêu trên có vị trí phía sau đất tranh chấp (nối dài đất tranh chấp) nếu anh H4, chị B1 phải trả lại đất cho cụ P như bản án sơ thẩm đã tuyên thì sẽ không có lối đi vào nhà phía sau, tại phiên tòa hôm nay phía nguyên đơn cũng thừa nhận điều này. Do vậy, xét thấy cần phải để lại cho gia đình ông H4 một lối đi vào nhà là phù hợp với thực tế, nên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đơn kháng cáo của ông H4 sửa một phần Bản án sơ thẩm; tuyên cho anh H4, chị B1 được sử dụng diện tích lối đi vào có chiều ngang 2m dài 6m và phải có nghĩa vụ thanh toán lại gía trị QSD đất cho cụ P là 12m2 x 7.000.000 đồng/m2 (theo biên bản định giá ngày 25/12/2020) = 84.000.000 đồng.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
[Nguồn: Bản án số : 94/2022/DS-PT ngày 12/4/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 94/2022/DS-PT
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn