NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nội dung kháng nghị về việc đưa thiếu người tham gia tố tụng; việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ và thủ tục ủy quyền:
[1.1] Về việc đưa thiếu người tham gia tố tụng và thu thập chứng cứ:
Căn cứ các Văn bản của UBND thành phố Q và Văn bản của Ban bồi thường hỗ trợ và tái định cư thành phố Q thể hiện toàn bộ diện tích đất các đương sự có tranh chấp chưa được cấp GCNQSDĐ, nhưng đã thừa nhận nguồn gốc đất cũng như việc thu hồi đất và chi trả tiền bồi thường cho ông Huỳnh Chí C là đúng theo quy định của pháp luật nên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã thu thập chứng cứ đầy đủ, làm rõ nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất. Trong vụ án này, UBND huyện Q, UBND xã Y cũng như Ban bồi thường hỗ trợ và tái định cư thành phố Q không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa vào tham gia tố tụng là có căn cứ, đúng pháp luật.
[1.2] Về thủ tục ủy quyền:
Nội dung kháng nghị cho rằng thủ tục gia hạn ủy quyền của bà Lại Thị Thu L1 cho ông Bùi Quốc H1 và ông Vũ Văn T không đúng, không hợp pháp hóa lãnh sự, dẫn đến việc ông H1, ông T định đoạt vượt quá phạm vi ủy quyền, trái với ý chí của bà L1.
Qua tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án thì bà L1 cư trú tại địa chỉ ấp T, xã T, huyện H, tỉnh K; hơn nữa, sau khi giải quyết phúc thẩm vụ án, bà L1 không có khiếu nại hay đề nghị giám đốc thẩm về phần phạm vi ủy quyền, điều này thể hiện bà L1 thống nhất với nội dung ủy quyền và việc thực hiện phạm vi ủy quyền của ông H1, ông T tại phiên tòa phúc thẩm.
[2] Về việc giải quyết nội dung tranh chấp
[2.1] Căn cứ Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 25/7/2018 và Sơ đồ trích đo hiện trạng thửa đất số 614/2018 ngày 19/10/2018, tổng diện tích đất 49.446,9m2 , trên đất có nhà, cây trồng lâu năm, được phân thành các phần:
Phần 1: là phần đất đối diện đường Y – X với diện tích 2.640,8 m 2 và 1.102,2 m 2 ; qua lời trình bày của các đương sự thì Tòa án xác định phần đất này nằm ngoài diện tích hiện các bên có yêu cầu tranh chấp; sau khi bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, các đương sự không đề nghị giám đốc thẩm, nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng không kháng nghị về phần này.
Phần 2: là phần đất bị thu hồi làm đường theo quy hoạch, tại Quyết định số 4266/QĐ-UBND ngày 13/9/2013, Quyết định số 4501/QĐ-UBND ngày 17/9/2013, và Quyết định số 2246/QĐ-UBND ngày 28/4/2014, UBND huyện Q thu hồi diện tích 19.763,2 m 2 đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư với tổng số tiền là 7.512.177.500 đồng cho ông Huỳnh Chí C. Đối chiếu với hiện trạng, vị trí sử dụng đất, thì các bên đương sự cùng xác định, trong tổng diện tích đất 19.763,2m2 bị thu hồi gồm có phần diện tích 14.137,5 m 2 mà ông C và ông Lại Văn O hùn chung nhận chuyển nhượng của ông B, phần diện tích 5.625,7 m 2 còn lại thuộc một phần trong 32.820,5 m 2 đất bà L1 nhận chuyển nhượng của ông B.
Phần 3: là phần diện tích đất thực tế còn lại 25.641,9 m 2 , các đương sự cùng xác định vị trí thuộc vào phần đất 32.820,5m2 có giao dịch chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn B cho phía ông Lại Văn O, bà Lại Thị Thu L1.
[2.2] Về nguồn gốc tài sản:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ về mốc thời gian sinh sống, quá trình khai phá quyền sử dụng đất, cất nhà ở, trồng hoa màu, cây ăn trái, làm ruộng của ông Nguyễn Văn B, bà Trần Thị N2 và ông Nguyễn Thanh S có trong hồ sơ vụ án; Tòa án xác định quyền sử dụng đất nêu trên cùng nhà cửa, cây trồng trên đất là tài chung của bà N2 và ông B. Năm 1993, Nhà nước đo vẽ sơ đồ 14 để làm thủ tục cấp GCNQSDĐ thuộc thửa số 101, diện tích 46.137,5m2 do bà N2 đứng tên; đến năm 2008, ông Huỳnh Chí C đăng ký biến động vào sổ mục kê của xã quản lý. Ngày 22/4/2016, sau khi giải quyết tố cáo của các bên, và được sự hướng dẫn từ phía Cơ quan cảnh sát điều tra (CV 95/CQCSĐT), bà Lại Thị Thu L1 nộp thủ tục để thay đổi tên trên sổ địa chính và đứng tên đăng ký cấp GCNQSDĐ nói trên.
Quá trình chung sống, ông Nguyễn Văn B và bà Trần Thị N2 không có con chung, ông Nguyễn Thanh S (Nguyễn Văn S) là con nuôi duy nhất của bà N2; bà N2 chết ngày 17/6/2006, không có để lại di chúc nên ông S là người thừa kế của bà N2; Tòa án xác định ông S và ông B là các chủ thể có quyền đối với các phần diện tích đất nêu trên là có căn cứ.
Với nguồn gốc tài sản, con nuôi và xác định thừa kế của bà N2 như trên, sau khi giải quyết phúc thẩm, các đương sự không ai khiếu nại hay có đề nghị giám đốc thẩm; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng không kháng nghị nội dung này.
[2.3] Liên quan đến phần diện tích đất thực tế còn lại 25.641,9 m2 , trong hồ sơ vụ án có các hợp đồng, giao dịch chuyển nhượng đất:
[2.3.1] Đối với Hợp đồng dân sự về việc chuyển nhượng đất nông nghiệp, trồng cây lâu năm ngày 16/7/2007 ông Nguyễn Văn B chuyển nhượng cho ông Lại Văn O và Hợp đồng dân sự ngày 16/7/2007 ông Nguyễn Văn B cùng Nguyễn Thị T5, Trần Văn Phương, Trần Văn Đông, Trần Thị Kim Quyên chuyển nhượng cho bà Lại Thị Thu L1: cả 02 hợp đồng nêu trên đều thể hiện diện tích đất chuyển nhượng 32.820,5m2 , giá chuyển nhượng 672.810.000 đồng, trên đất trồng 1.200 cây đào và căn nhà cấp 4, dài 9m, rộng 4,5m, nền xi măng, xây gạch, lợp thiếc; và đều được ông Nguyễn Thanh S đồng thuận, ký tên (Bút lục 377, 524);
Căn cứ lời khai của ông B đã nhận đủ số tiền 672.810.000 đồng trong quá trình tố tụng; Căn cứ giấy cho mượn nhà ở ngày 31/8/2007, nội dung bà L1 có căn nhà …cho cháu mượn ở, để giữ nhà và giữ vườn nếu có thất thoát cháu Sang hoàn toàn chịu trước pháp luật… (bút lục 71); Căn cứ Kết luận giám định số 1925/C54B ngày 08/5/2018 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Chữ ký mang tên Nguyễn Văn B và chữ ký mang tên Nguyễn Thanh S (Nguyễn Văn S)…là do ông Nguyễn Văn B và ông Nguyễn Thanh S ký ra (bút lục 517); Căn cứ biên bản đối chất ngày 14/7/2017 (bút lục 364, 365) và các lời khai tại Cơ quan điều tra Công an tỉnh K (bút lục 298-301); Căn cứ lời khai của ông O quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm xác định bà L1 là người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thanh toán đầy đủ tiền cho ông B; ông không tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng nhà đất với bà L1;
Luật Đất đai năm 2003 quy định:
– Tại khoản 1 Điều 106: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất…”; Điểm b khoản 1 Điều 127: “Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”; Khoản 1 Điều 146: “Chính phủ quy định về thời hạn hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất trong phạm vi cả nước. Trong thời hạn này, người đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cũng được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “…2.3. …
- a) Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
a.4) Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;…
a.6) Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền…
- b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này….
b.2) Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.”
Xuất phát từ nguyên tắc “Quyền tự định đoạt của các đương sự” trong giao dịch dân sự; xét hợp đồng chuyển nhượng ngày 16/7/2007 giữa bà L1 và ông B:
Về đối tượng chuyển nhượng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, trước đây đã được bà N2 đăng ký, đo vẽ, làm thủ tục cấp QSD đất; sau đó đến ông C đăng ký, và sau cùng bà L1 nộp thủ tục để thay đổi tên trên sổ địa chính và đứng tên đăng ký cấp GCNQSDĐ (theo hướng dẫn của CV 95/CQCSĐT). Về hình thức hợp đồng không có công chứng, chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, về nội dung hai bên thể hiện được ý chí hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận ký kết hợp đồng, các chủ thể có quyền liên quan đến quyền sử dụng đất (ông B, ông S) đều biết và đồng thuận thực hiện hợp đồng thông qua việc ông S ký tên đồng thuận hợp đồng chuyển nhượng; bà L1 đã thanh toán đủ số tiền 672.810.000 đồng cho ông B nhận. Các bên cũng đã tiến hành giao nhận nhà đất trên thực tế, thể hiện thông qua việc bà L1 cho ông S mượn nhà ở vào ngày 31/8/2007, còn phía ông B chuyển về ấp T, xã P, huyện C, tỉnh T sinh sống từ 2007 cho đến nay. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hiệu lực giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên là đúng với các quy định của pháp luật được viện dẫn ở trên, cũng phù hợp với nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[2.3.2] Ngoài ra, hồ sơ vụ án còn có 02 hợp đồng:
Hợp đồng dân sự ngày 16/7/2007, ông Nguyễn Văn B chuyển nhượng cho ông Lại Bá H và ông Huỳnh Chí C diện tích đất 60.945m2 , giá 963.500.000 đồng; đất ruộng diện tích 13.700 m 2 giá 95.500.000 đồng, có căn nhà cấp 4 tổng số tiền 1.059.000.000 đồng) (bút lục 68, 69); Hợp đồng dân sự về chuyển nhượng đất nông nghiệp ngày 12/11/2007 ông Lại Bá H chuyển nhượng cho ông Huỳnh Chí C diện tích 60.945m2 , giá 963.500.000 đồng (bút lục 66).
Tại kết luận giám định số 3532/C54B ngày 03/11/2017 của Phân viện Khoa học hình sự kết luận: chữ ký, chữ viết họ tên “Nguyễn Văn B” dưới mục “Đại diện bên A” … là do ông B ký, viết ra (bút lục 439).
Biên bản đối chất ngày 14/7/2017 (bút lục 364, 365) và các lời khai tại Cơ quan điều tra Công an tỉnh K (bút lục 298-301): ông C khai, nguyên nhân có hợp đồng này là do thỏa thuận của ông H, ông C và bà L1 để ông C đứng tên, nên gom chung từ các hợp đồng “ông B chuyển nhượng cho ông O, bà L1 diện tích 32.820,5m2 ”, “ông B chuyển nhượng cho ông C diện tích 14.137,5m2 (phần mua chung với ông O, đã bị thu hồi toàn bộ)” và “ông B chuyển nhượng cho ông C diện tích 13.700m2 ”, thống nhất giao cho ông H đứng tên nhằm thuận tiện việc chuyển sang tên cho ông C để ông C làm giấy tờ; ông H khai chỉ ký tên chuyển nhượng cho ông C để hợp thức hóa quyền sử dụng đất theo yêu cầu của ông O và bà L1, chứ cả 2 Hợp đồng này thực chất không có thật; các trình bày trên phù hợp với nội dung của tờ thỏa thuận của ông C vào năm 2012 và 2014 về việc đứng tên làm giấy tờ đất.
Về diện tích đất bị thu hồi 14.137,5 m 2 mà ông C và ông O nhận chuyển nhượng của ông B: quá trình lấy lời khai, đối chất thì các bên xác định giá trị của hợp đồng thời điểm chuyển nhượng là 232.750.000 đồng, đã thanh toán 173.750.000 đồng, còn thiếu lại ông B 59.000.000 đồng.
Về diện tích đất 13.700m2 , ông C cho rằng ông nhận chuyển nhượng đất với ông B và đã thanh toán xong; còn ông B không thừa nhận giao dịch này và trình bày “có lần ông nhờ ông C làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 14.000m2 nhưng ông C không thực hiện được”; quá trình tố tụng, ông C không có yêu cầu phản tố.
Từ các căn cứ trên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định cả 02 hợp đồng (mà các bên chuyển nhượng với diện tích đất 60.945 m 2 ) là vô hiệu do giả tạo, bởi lẽ phía ông B ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng, nhưng thực chất ông B không có nhận tiền, mà mục đích là tập hợp các diện tích đất để chuyển sang tên ông C, thuận tiện cho việc ông C làm giấy tờ đất là có căn cứ.
Ngược lại, Tòa án cấp phúc thẩm xác định hiệu lực và công nhận hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất 60.945 m 2 của Nguyễn Văn B cho Lại Bá H và Huỳnh Chí C; điều này không phản ảnh đúng với tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án, gây chồng chéo với phần diện tích chuyển nhượng giữa ông B với bà L1 đã được công nhận như phân tích tại mục 2.3.1 nêu trên. Tại phần quyết định của bản án phúc thẩm (tại mục 6 và mục 8), Tòa án cấp phúc thẩm đều công nhận hiệu lực của các hợp đồng trùng nhau về các diện tích đất, trong khi đó thực tế các diện tích đất đã thay đổi và được Tòa án các cấp tách ra phân tích làm rõ từng phần, có phần đã giải tỏa nhận bồi thường, có phần nằm ngoài phần tranh chấp, và phần diện tích thực tế còn lại.
[2.4] Về phần bồi thường, trong tổng diện tích đất 19.763,2 m 2 , cụ thể:
Phần 5.625,7m2 , như trên công nhận hợp đồng chuyển nhượng với bà L1, bà L1 đã thanh toán 100% giá trị hợp đồng nên về phần bồi thường diện tích đất này, bà L1 là người được hưởng; quá trình tố tụng, bà L1 xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết trong vụ án này.
Phần diện tích đất 14.137,5m2 mà ông C cùng ông O nhận chuyển nhượng của ông B: qua đối chất thể hiện giá trị của hợp đồng thời điểm chuyển nhượng là 232.750.000 đồng, đã thanh toán 173.750.000 đồng, còn thiếu lại 59.000.000 đồng, tương đương 25,35%; Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định giá trị tương ứng tại thời điểm bồi thường là 1.362.257.300 đồng, buộc ông C phải có nghĩa vụ hoàn trả số tiền này cho ông S là có căn cứ (ông S và ông B không yêu cầu giải quyết quyền lợi các ông đối với số tiền này nên Tòa án không đặt ra để xem xét).
[2.5] Các quyết định khác liên quan đến việc buộc tháo dỡ, di dời nhà, công trình trên đất; liên quan đến diện tích nhà thực tế ông S đang ở, thời gian lưu cư, chi phí tố tụng, án phí … mà Tòa án cấp phúc thẩm quyết định, sửa án sơ thẩm; sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, không đương sự nào có đơn đề nghị giám đốc thẩm; kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao cũng không kháng nghị các phần quyết định này.
[3] Trong vụ án tranh chấp này, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết rất nhiều mối quan hệ và các bên cũng như Viện kiểm sát không kháng nghị đối với việc giải quyết các tranh chấp khác ngoài các phần đã được phân tích trên; như trên đã nhận định, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận Hợp đồng chuyển nhượng ngày 16/7/2007 giữa bà L1 với ông B, ông S là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm có tuyên sai sót về diện tích nhà ở; về quyền lưu cư, chi phí tố tụng, án phí và đã được Tòa án cấp phúc thẩm khắc phục. Tòa án cấp phúc thẩm trong phần nhận định xác định Hợp đồng chuyển nhượng ngày 16/7/2007 giữa bà L1 với ông B, ông S là có hiệu lực, có căn cứ nhưng lại công nhận Hợp đồng dân sự giả tạo ngày 16/7/2007, ông B chuyển nhượng cho ông H và ông C diện tích đất 60.945m2 (trong đó có diện tích đất bà L1 đã nhận chuyển nhượng); buộc vợ chồng ông S, bà H3 trả nhà đất cho ông C là mâu thuẫn, không đúng pháp luật. Tại Công văn số 132/CV-DS ngày 03/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh K về việc giải thích bản án phúc thẩm trả lời cho bà Lại Thị Thu L1 với nội dung: “…Sau khi ông C thực hiện việc kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xong. Nếu ông C không thực hiện việc sang tên cho bà theo thỏa thuận, bà có quyền yêu cầu ông C thực hiện. Trường hợp ông C không thực hiện thì yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết theo quy định”. Việc giải thích bản án như trên là không đúng pháp luật, không giải quyết triệt để vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà L1.
Xét thấy vụ án xảy ra đã lâu, các tài liệu, chứng cứ trong vụ án đã được thu thập đầy đủ, rõ ràng; có đủ căn cứ để làm rõ các tình tiết trong vụ án. Việc sửa một phần bản án phúc thẩm không làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; Căn cứ Điều 347 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng giám đốc thẩm xem xét không cần thiết hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm để giải quyết lại như kháng nghị của Viện kiểm sát và chỉ sửa một phần bản án phúc thẩm theo hướng công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng ngày lập 16/7/2007 giữa ông B với bà L1, được ông S đồng thuận, theo diện tích đo đạc thực tế 25.641,9m2 đất (các vị trí đất, hình thửa, tọa độ theo Sơ đồ trích đo hiện trạng thửa đất đang tranh chấp được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Q ký duyệt ngày 19/10/2018 (BL 598).
[3] Về việc thi hành bản án phúc thẩm:
Trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là: vợ chồng ông Danh H4, bà Diệp Thị Bích G; vợ chồng ông Nguyễn Văn T4, bà Lê Thị L2; vợ chồng ông Trần Hoàng A, bà Nguyễn Thị N1; vợ chồng ông Phan Thanh T2, bà Nguyễn Thị Thanh T3; vợ chồng ông Trịnh Văn Đ, bà Nguyễn Thị H5 là những người ở trên diện tích đất tranh chấp của bà L1 đã nhận chuyển nhượng (do vợ chồng ông S cho cất nhà và cho thuê sau khi các bên đã tranh chấp và đã được Tòa án thụ lý giải quyết) đều có ý kiến nếu ông S thắng kiện thì tự giải quyết với nhau, nếu ông S thua kiện thì tự tháo dỡ nhà và không yêu cầu bồi thường.
Bản án phúc thẩm đã tuyên buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh S, bà Diệp Thị Bích H3 có nghĩa vụ giao trả diện tích 25.641,9m2 đất (trên có cất căn nhà diện tích 84,22m2 ); buộc những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là những người ở trên đất tranh chấp có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời nhà, công trình phụ nằm trên vị trí, diện tích đất 5.179,1m2 để giao trả quyền sử dụng đất cho ông Huỳnh Chí C.
Tại Báo cáo số 453/BC-CCTHADS ngày 03/4/2023 và Báo cáo số 723/BC-CCTHADS ngày 12/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q, sau khi Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành, ngày 01/4/2022 ông Huỳnh Chí C có đơn yêu cầu thi hành án; ngày 04/4/2022 Chi cục Thi hành án dân sự có Quyết định thi hành án tổ chức thi hành. Ngày 17/7/2022 các đương sự tự nguyện thỏa thuận thi hành án gồm: ông Nguyễn Thanh S (Nguyễn Văn S) cùng vợ là bà Diệp Thị Bích H3; những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhận của ông Huỳnh Chí C 10.000.000.000 đồng và tự tháo dỡ nhà, giao đất cho ông Huỳnh Chí C xong.
Việc tự nguyện hỗ trợ di dời của ông Huỳnh Chí C như theo báo cáo thi hành án là ý chí cá nhân của ông C, trường hợp sau này các bên đương sự có tranh chấp về phần thỏa thuận bồi thường, di dời tài sản trên đất thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 120/2023/DS-GĐT ngày 13/6/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số: 120/2023/DS-GĐT
———–
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn