Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Sửa án vì tính án phí có giá ngạch cho tranh chấp xác định đất của ai là không đúng quy định pháp luật

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Sửa án vì tính án phí có giá ngạch cho tranh chấp xác định đất của ai là không đúng quy định pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1]. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có cơ sở để xác định: Năm 1994, ông Nguyễn Công Th (là cha anh Nguyễn Thành Ph) có chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Huỳnh T, bà Trần Thị T. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm quyết định giao cho ông Huỳnh T và bà Trần Thị T được quyền sử dụng 121,5 m2 đất ở thuộc thửa đất số 755, tờ bản đồ số 7, tại thôn T 2, xã B, huyện H, tỉnh Bình Định là đúng pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án hai cấp tỉnh Bình Định lại xác định diện tích đất mà ông Nguyễn Công Th chuyển nhượng cho vợ chồng ông Huỳnh T và bà Trần Thị T có sự khác nhau, cụ thể:

[1.1]. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào “Giấy sang lại đất ở” ngày 23/12/1994, thể hiện ông Nguyễn Công Th chuyển nhượng cho ông Huỳnh T, bà Trần Thị T lô đất có chiều dài 20 m, chiều ngang 6 m, nên không chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Thành Ph; công nhận ông Huỳnh T, bà Trần Thị T được quyền sử dụng thửa đất có diện tích 121,5 m2 ; còn Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng chữ số 2 trong số 20 của “Giấy sang lại đất ở” ngày 23/12/1994 có sự chỉnh sửa từ số 10 thành 20, không xác định được ai sửa, nên cho rằng ông Huỳnh T, bà Trần Thị T phải chịu hậu quả của việc sửa chữa này, từ đó chỉ công nhận ông T, bà T nhận chuyển nhượng 10 m x 6 m, còn lại 10 m x 6 m thì buộc ông T, bà T phải trả cho anh Ph 1.260.750.000 đồng.

[1.2]. Xét thấy, Tòa án cấp phúc thẩm xác định chữ số ban đầu là số 1 bị sửa thành số 2 là không đủ cơ sở, vì trong giấy chỉ thể hiện chữ số 2 bị tô đậm nét, mà không thể hiện là chữ số 2 bị sửa từ chữ số 1, trong khi không có đương sự nào khiếu nại, thắc mắc gì về vấn đề này. Đối với nội dung mà bản án dân sự phúc thẩm nhận định: “Sự việc sửa theo bà T khai sửa số 1 thành số 2 là do ông Th sửa sau này…”, qua đối chiếu biên bản phiên tòa phúc thẩm, thì không có nội dung nào phản ánh như phần nhận định trên. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn nhận định tại Biên bản hòa giải ngày 16/12/2009, ông Nguyễn Công Th chỉ thừa nhận chuyển nhượng đất cho ông Huỳnh T, bà Trần Thị T nhưng không nói rõ diện tích đất là bao nhiêu? nên xác định chỉ chuyển nhượng diện tích đất là 10 m x 6 m là không có căn cứ, bởi lẽ:

Tại Biên bản làm việc ngày 09/5/2018, ông Trần Ngọc Khoa (cán bộ địa chính Ủy ban nhân dân xã B) xác nhận: “Năm 1994, ông Th chuyển nhượng cho ông T, bà T diện tích đất chiều ngang 6 m, chiều dài 20 m. Sau khi nhận chuyển nhượng, thì vợ chồng ông T, bà T xây dựng nhà ở. Năm 1995, ông Th được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Th và vợ chồng ông T, bà T có đến Ủy ban nhân dân xã đề nghị làm thủ tục chuyển nhượng. Ủy ban nhân dân xã đã tiến hành lập Biên bản thẩm tra hồ sơ đất đai và khi thẩm tra đã có nhà ở của vợ chồng ông T trên đất và lập hợp đồng chuyển nhượng, nhưng do vợ ông Th chết, con ông Th không đồng ý chuyển nhượng, nên các bên không làm thủ tục chuyển nhượng được”.

Tại Biên bản thẩm tra hồ sơ đất đai do Ủy ban nhân dân xã B lập, thể hiện diện tích đất chuyển nhượng kích thước như sau: Đông 6,5 m; Tây 5,15 m; Nam 19,5 m; Bắc 19,7 m có chữ ký của ông Nguyễn Công Th ở mục đại diện bên bán và ký tứ cận Đông, Nam.

Tại Biên bản định giá tài sản ngày 29/8/2017, thể hiện ngôi nhà trên đất được xây dựng từ năm 1995, với diện tích đất 114,74 m2 là phù hợp với lời khai của vợ chồng ông T, bà T về việc sau khi nhận chuyển nhượng đã xây dựng nhà trên diện tích đất và phù hợp với lời khai của những người làm chứng (hàng xóm sinh sống lâu năm), đều xác định khoảng năm 1995 vợ chồng bà T xây dựng trên phần đất tranh chấp (121,5 m 2 ).

Tại Biên bản hòa giải ngày 03/8/2010, Chủ trì cuộc hòa giải kết luận: “Xác định phần đất sang nhượng giữa hai bên theo đề nghị của ông Biểu chúng tôi nhận thấy phần diện tích trong sổ đỏ của ông Nguyễn Công Th mà gia đình ông T bà T đã xây dựng các công trình là phần đất mà hai bên đã thỏa thuận sang nhượng”. Các bên tham gia hòa giải không có ý kiến gì về nội dung kết luận trên, anh Nguyễn Thành Ph chỉ không đồng ý việc chuyển nhượng và đề nghị chuyển qua Tòa án để giải quyết.

[2]. Như vậy, sau khi nhận chuyển nhượng đất (năm 1994), ông Huỳnh T và bà Trần Thị T đã xây dựng nhà ở, với diện tích đất 114,74 m2 (tương đương với chiều dài thửa đất nhận chuyển nhượng là 20 m), ông Th biết và không có ý kiến phản đối gì. Tại Biên bản thẩm tra hồ sơ đất đai chuyển nhượng thể hiện chiều dài thửa đất chuyển nhượng là 19,7 m và 19,5 m, ông Th đã ký Biên bản mà không có ý kiến gì khác, cán bộ địa chính làm thủ tục chuyển nhượng cho các bên cũng xác định các bên chuyển nhượng thửa đất có chiều dài 20 m là phù hợp với “Giấy sang lại đất ở” ngày 23/11/1994, trong đó thể hiện chiều dài thửa đất chuyển nhượng là 20 m. Tại Biên bản hòa giải ngày 16/12/2009 (nêu trên), mặc dù ông Th không xác định diện tích đất đã chuyển nhượng là bao nhiêu, nhưng ông cũng không có ý kiến gì về diện tích đất thực tế mà ông T, bà T đang sử dụng (121,5 m2 ), đồng ý tiếp tục chuyển nhượng, đề nghị tổ hòa giải động viên, thuyết phục con ông là anh Nguyễn Thành Ph hiểu để thực hiện thủ tục chuyển nhượng cho vợ chồng bà T.

Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu đòi lại đất của anh Nguyễn Thành Ph là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng chữ số 2 trong số 20 của “Giấy sang nhượng lại đất ở” ngày 23/11/1994 bị chỉnh sửa từ số 1 và chỉ căn cứ vào Biên bản hòa giải ngày 16/12/2009, trong đó ông Th không nêu diện tích đất chuyển nhượng là bao nhiêu?, từ đó công nhận ông Th đã chuyển nhượng 10 m x 6 m mà không xem xét, đánh giá các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là không khách quan, toàn diện như đã phân tích trên.

[3]. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Thành Ph là đúng pháp luật, nhưng lại buộc đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là không đúng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bởi lẽ: Đối với trường hợp Tranh chấp về quyền sử dụng đất của ai, thì đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án không có giá ngạch. Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thành Ph; đồng thời, buộc ông Huỳnh T và bà Trần Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là không có căn cứ. Vì vậy, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, sửa Bản án dân sự phúc thẩm số 73/2019/DS-PT ngày 05/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định theo hướng bản án sơ thẩm đã quyết định, nhưng tính lại phần án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án không có giá ngạch.

[Nguồn: Quyết định GĐT số 60/2021/DS-GĐT Ngày 6/09/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định: 60/2021/DS-GĐT 

Bài viết liên quan