Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Sửa án vì không tuyên phần lãi chậm trả nếu không thi hành án

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Sửa án vì không tuyên phần lãi chậm trả nếu không thi hành án

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Theo nội dung vụ án, bà Lê Kim Q là mẹ ruột của cháu Nguyễn Hạo Gia Ng, căn cứ quy định tại Điều 47, Điều 136 Bộ luật Dân sự thì bà Q được xác định là người đại diện theo pháp luật của cháu Ng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Q là người giám hộ của cháu Ng là không chính xác. Quá trình giải quyết vụ án, cụ Lê Thị K là nguyên đơn chết. Tòa án cấp sơ thẩm đưa những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ K tham gia tố tụng nhưng không xác định họ với tư cách là nguyên đơn là không đúng, do đó cần xác định lại tư cách tố tụng của các đương sự cho đúng với quy định của pháp luật.

[2] Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa án, như sau:

  1. Khi giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án thì Tòa án phải quyết định trong bản án hoặc quyết định (Phần quyết định) như sau:
  2. a) …
  3. b) Đối với trường hợp khoản tiền phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước mà pháp luật có quy định nghĩa vụ trả lãi; hoặc khoản tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; hoặc trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác mà các bên không thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
  4. “Mức lãi suất hai bên thỏa thuận” hướng dẫn tại khoản 1 điều này là mức lãi suất nợ quá hạn các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc tại Tòa án. Trường hợp, các bên không có thỏa thuận về mức lãi suất nợ quá hạn thì mức lãi suất nợ quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn.

Đối chiếu quy định nêu trên thì khi tuyên buộc bà Lê Kim Q (người đại diện theo pháp luật của cháu Ng) phải trả cho ông Nguyễn Thành LI số tiền 508.466.000 đồng thì Tòa án cấp sơ thẩm còn phải tuyên về khoản tiền lãi chậm thi hành án kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong. Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên về phần lãi suất chậm thi hành án trong bản án là làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Thành LI.

 [3] Khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai”.

Đối chiếu với quy định nêu trên, việc Tòa án nhân dân huyện TC ban hành Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án dân sự sơ thẩm số 07/2021/QĐSCBSBA ngày 27/12/2021, để bổ sung thêm phần: “kể từ ngày ông LI có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Lê Kim Q (người giám hộ cho cháu Nguyễn Hạo Gia Ng) chưa thi hành hết số tiền như đã nêu trên thì hàng tháng bà Lê Kim Q (người giám hộ cho cháu Nguyễn Hạo Gia Ng) còn phải chịu thêm tiền lãi trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015”, là không đúng. Bởi vì phần bổ sung này đã làm phát sinh thêm quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ án.

[4] Theo báo cáo kiến nghị số 04/TA-BCKN ngày 25/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh; Công văn số 312/CTHADS-KTGQKNTC ngày 23/3/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh, sau khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, vào ngày 07/4/2021 ông LI có đơn yêu cầu thi hành án, đến ngày 16/12/2021, bà Q đã nộp đủ số tiền 508.466.000 đồng để thi hành án trả cho ông LI. Ngày 25/01/2022, ông LI có đơn yêu cầu thi hành án bổ sung về khoản tiền lãi chậm thi hành án. Tại Thông báo số 318/TB-CCTHADS ngày 28/01/2022, Chi cục Thi hành án dân sự huyện TC từ chối nhận yêu cầu thi hành án của ông LI vì cho rằng bà Q đã thi hành án xong số tiền 508.466.000 đồng trước khi có quyết định sửa chữa, bổ sung bản án và trước khi ông LI có đơn yêu cầu thi hành án phần lãi suất.

Như vậy, bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện TC có thiếu sót trong việc không tuyên nghĩa vụ trả lãi trong trường hợp chậm thi hành án nhưng quyết định sửa chữa, bổ sung bản án được ban hành không đúng quy định của pháp luật, không thi hành án được. Do đó, để đảm bảo quyền lợi cho các đương sự, cần hủy quyết định sửa chữa, bổ sung bản án và sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc bà Q trả cho ông LI khoản tiền lãi chậm trả của số tiền chậm thi hành án tính từ ngày 07/4/2021 đến ngày 15/12/2021.

[5] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc nguyên đơn phải giao 01 phần đất cho bị đơn, có diện tích, tứ cận nhưng không nêu rõ đất tọa lạc tại đâu, thuộc GCNQSDĐ nào là thiếu sót. Tại quyết định sửa chữa bổ sung bản án, Tòa án cấp sơ thẩm đã bổ sung thêm phần này nhưng do phải hủy quyết định sửa chữa, bổ sung bản án như đã phân tích nêu trên, nên cũng cần sửa bản án sơ thẩm để bổ sung thêm cụm từ “đất tọa lạc tại xã TB, huyện B, tỉnh Tây Ninh, đất đã được UBND huyện B, tỉnh Tây Ninh cấp GCNQSDĐ số 04485 QSDĐ/1741/04/HĐ-CN ngày 09/8/2004 do ông Nguyễn Thành LC đứng tên đăng ký” nhằm đảm bảo cho công tác thi hành án.

[6] Về kết quả thi hành án:

 Ông Nguyễn Thành LI chưa nộp án phí dân sự sơ thẩm là 10.896.000 đồng.

Đối với chi phí đo đạc, định giá: cụ Nguyễn Văn Tr phải chịu 7.340.000 đồng, cụ Tr đã nộp xong. Bà Lê Kim Q (người đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Hạo Gia Ng) trả cho cụ Tr số tiền chi phí đo đạc, định giá là 3.670.000 đồng. Ngày 16/12/2021, bà Lê Kim Q đã thi hành án xong số tiền này.

– Ngày 07/4/2021, ông Nguyễn Thành LI có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền 508.466.000 đồng. Ngày 16/12/2021, bà Q đã thi hành án trả cho ông Nguyễn Thành LI xong số tiền này.

[Nguồn: Quyết định GĐT số: : 95/2023/DS-GĐT ngày 16/5/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số: 95/2023/DS-GĐT

———–

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan