NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Tô Vĩ C đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định, đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên kháng cáo của ông C là hợp lệ, được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Tô Vĩ C: [2.1] Về tố tụng:
[2.1.1] Căn cứ vào đơn khởi kiện của ông Tô Vĩ C yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở ngày 15/11/2007 của Phòng công chứng số 01 tỉnh Bạc Liêu, công nhận diện tích đất 83,25m2 tọa lạc tại đường L1 (nay là C) khóm 1, Phường 2, thành phố B là di sản thừa kế của cụ Tô S, Trần Thị D1 để lại. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là vụ án “tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và thừa kế tài sản” là đúng theo khoản 3, khoản 5 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về tư cách của các đương sự trong vụ án cũng như xác định thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2.1.2] Thời hiệu khởi kiện: Vợ chồng cụ Tô S, Trần Thị D1 có tạo lập đươc tài sản chung là 01 căn nhà cấp 4, xây dựng trên thửa đất diện tích 83,25m2 tọa lạc tại đường L1 (nay là C) khóm 1, Phường 2, thành phố B. Cụ Trần Thị D1 chết ngày 24/3/1982, không để lại di chúc. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ luật dân sự năm 1995 để xác định thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế của cụ D1 đã hết là không đúng pháp luật bởi lẽ: Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 và theo
điểm d khoản 1 Điều 688 quy định “thời hiệu được áp dụng theo quy định của bộ luật này”, căn cứ khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị Quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về thi hành bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính thì từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án. Theo đó thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế. Hơn nữa, trong vụ án này có thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài vì vậy thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/9/2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện. Như vậy, ngày 16/01/2018 ông Tô Vĩ C khởi kiện thừa kế đối với di sản thừa kế của cụ D1 là vẫn còn thời hiệu. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm xác định thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế của cụ D1 đã hết nhưng lại xử bác yêu cầu khởi kiện của ông C là không đúng pháp luật.
[2.2] Về nội dung:
[2.2.1] Năm 1964 cụ Tô S (Tô X) và vợ là cụ Trần Thị D1 có mua của ông Pierre Trần Minh K căn nhà phố số 36 nêu trên với giá 60.000 đồng, năm 1982 cụ D1 chết, đến năm 1995 cụ S lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, Ủy ban nhân dân tỉnh Minh Hải căn cứ vào văn bản “Đồng ý cho cha đứng tên chủ quyền nhà” của 05 người con cụ S, cụ D1 gồm: Tô Thị D, Tô Thị Q, Tô Thị V, Tô Văn Kh, Tô Thị Ph lập ngày 20/7/1995 để cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cho cụ S ngày 05/10/1995 là chưa đúng pháp luật bởi lẽ: căn nhà số 36 là tài sản chung của cụ S và cụ D1, năm 1982 cụ D1 chết không để lại di chúc, như vậy 1/2 căn nhà là di sản thừa kế cho cụ S và 08 người con của cụ S, cụ D1 nhưng chỉ có 05 người con kể trên đồng ý cho cụ S đứng tên quyền sở hữu nhà, còn 03 người con gồm Tô L1, Tô Tú L và Tô Vĩ C chưa có ý kiến đồng ý cho cụ S đứng tên sở hữu toàn bộ căn nhà. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định năm 1995 khi cụ S lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, do ông Tô Vĩ C không có tên trong sổ hộ khẩu, không trực tiếp ở trong căn nhà này để từ đó cho rằng ông C không có quyền đối với căn nhà này là không đúng pháp luật vì hộ khẩu chỉ là thủ tục hành chính để cơ quan quản lý Nhà nước quản lý con người, còn quyền thừa kế là quyền nhân thân gắn với mỗi cá nhân.
[2.2.2] Xét việc Ủy ban nhân dân tỉnh Minh Hải cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cho cụ Tô S (Tô X) ngày 05/10/1995 là không đúng pháp luật nên năm 2001 cụ S làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, đăng ký nhà ở và đất ở để xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở và UBND tỉnh Bạc Liêu đã cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho cụ Tô S ngày 27/6/2001 là không đúng pháp luật. Do đó, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 15/11/2007 giữa cụ S và bà Tô Thị D là vi phạm pháp luật nên vô hiệu, từ đó việc điều chỉnh sang tên cho bà Tô Thị D tại mục III thay đổi về chủ của giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 27/6/2001 là không đúng pháp luật.
[2.2.3] Đối với căn nhà cấp 4, có chiều ngang 3,5m dài 16 m, có gác gỗ, kết cấu mái ngói, cột gạch thì bà Tô Thị D đã dỡ bỏ, nay các bên đương không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.
[2.2.4] Các bên đương sự đều thống nhất với Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 31/05/2018 (BL 349, 347) và Trích đo phần đất tranh chấp ngày 21/06/2018 (BL 361) thì phần đất tranh chấp có tổng diện tích 94.3m2, tại thửa 11, tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại Đường L1 (nay là đường C), khóm 1, Phường 2, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu, do bà Tô Thị D đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đang quản lý đất. Đất có vị trí và số đo như sau:
– Hướng Bắc giáp với phần đất của bà Trần Thị L có số đo 21.13m + 3.95m.
– Hướng Nam giáp với đất của ông Huỳnh Hưng B có số đo 26.75m + 0.5m + 2,65m.
– Hướng Đông đường C có số đo 3.5m.
– Hướng Tây giáp đất ông Quách Văn T có số đo 1.35m + 2.15m. Tổng diện tích là 94.3m2.
Trên đất có căn Nhà cấp III: 01 trệt, 01 lầu do bà Tô Thị D xây dựng. Kết cấu: Móng bê tông cốt thép, tường sơn nước, trét mastic, mái lợp tôn lạnh, mặt tiền ốp đá granic màu đen, trần thạch cao, khung nhôm, sàn lát gạch men màu trắng. Diện tích tầng trệt 76,75m2, trong đó 6,75m2 là diện tích kho. Diện tích tầng một có tổng diện tích 70m2. Diện tích tầng 02 70m2. Diện tích sân trước là 13m2. Tổng diện tích là 229,75m2. Kết quả định giá ngày 31/05/2018 (BL 351): Giá đất tranh chấp: 13.020.000 đồng/m2 x 94.3m2 = 1.227.786.000 đồng. Giá nhà tranh chấp: 840.000.000 đồng. Tổng giá trị nhà và đất là 1.227.786.000 đồng + 840.000.000 đồng = 2.067.786.000 đồng.
[2.2.5] Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Tô Vĩ C, sửa bản án sơ thẩm; chấp yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận 1/2 quyền sử dụng đất tại thửa 11, tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại Đường L1 (nay là đường C), khóm 1, Phường 2, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu, (đo đạc thực tế là 94,3m2 ) là di sản thừa kế của cụ Trần Thị D1 để lại chưa chia.
[3] Do sửa án sơ thẩm nên án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng khác được tính lại như sau: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên ông Tô Vĩ C không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, chi phí đo đạc, thẩm định tài sản. Bà Tô Thị D phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm và 880.000 đồng tiền chi phí thẩm định tài sản và đo đạc, do ông C đã nộp khoản tiền này nên bà D có trách nhiệm trả lại cho ông C 880.000 đồng.
[4] Do kháng cáo được chấp nên nguyên đơn ông Tô Vĩ C không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị sửa án sơ thẩm là có căn cứ nên được chấp nhận.
[Nguồn: Bản án PT số 75/2022/DS-PT Ngày 16/02/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn Bản án PT: 75/2022/KDTM-TT