Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hành chính / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Sửa án sơ thẩm hủy các Quyết định hành chính vì liên quan đến chậm trả tiền bồi thường, hỗ trợ tái định cư

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Sửa án sơ thẩm hủy các Quyết định hành chính vì liên quan đến chậm trả tiền bồi thường, hỗ trợ tái định cư

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện và ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy:

Người khởi kiện ông Trần Văn H khởi kiện yêu cầu Tòa án:

– Hủy Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên – Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) Khánh Bình, huyện (nay thị xã) Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

– Hủy Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất.

– Hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

– Hủy Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn Hai.

– Hủy Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1).

– Hủy Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

[1] Xét thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành các quyết định bị khiếu kiện: Căn cứ khoản 2 Điều 44 Luật đất đai năm 2003; Điều 18, Điều 40 của Luật Khiếu nại; Điều 126, Điều 127 của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì các quyết định nói trên được ban hành đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên – Cổng Xanh được UBND tỉnh Bình Dương phê duyệt dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011; UBND huyện T phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 có kèm theo phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư. Ngày 13/8/2012 Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Tân Uyên lập biên bản áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H.

[2.2] Ngày 23/8/2012 UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ[1]UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P và Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng. Ông Trần Văn H cho rằng các Quyết định này được ban hành trên những căn cứ trái luật, hồ sơ khống kèm theo Quyết định nêu trên là biên bản kiểm kê đất và tài sản trên đất lập ngày 20/12/2011 nhưng ông H hoàn toàn không nhận được biên bản kiểm kê tài sản có bảng vẽ hiện trạng vị trí đất của ông bị giải tỏa, không xác định được ranh mốc phần đất bị giải tỏa thì làm sao xác định được diện tích đất bị giải tỏa là bao nhiêu để thu hồi đất và tính giá bồi thường; đồng thời bản áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 61/TTPTQĐ-KT lập ngày 13/8/2012 còn được thực hiện trước khi UBND huyện T ra Quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn H.

[2.3] Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 cho ông Trần Văn Hai. Ông Trần Văn H không đồng ý giá bồi thường tại Quyết định số 10492/QĐ-UBND vì cho rằng: Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm” thì ông H phải được bồi thường theo giá đất năm 2015, nhưng Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T lại áp giá theo giá đất tại thời điểm năm 2012. Mặt khác, theo khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định thì giá đất tính bồi thường là giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất và hiện nay ông Trần Văn H vẫn chưa nhận được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên, UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất. Do đó, ông Trần Văn H đề nghị được bồi thường giá đất tại thời điểm thu hồi đất là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ và khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT[1]BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giá đất để tính bồi thường và xác định giá đất trong một số trường hợp cụ thể thì giá đất tại thời điểm thu hồi đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể để quyết định giá đất tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất.

Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất mới công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương cho ông Trần Văn H. Lý do sau hai năm mới triển khai quyết định bồi thường theo Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên là do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bố cho dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Như vậy việc ông Trần Văn H không được nhận bồi thường tại thời điểm có Quyết định thu hồi đất số 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND huyện T không phải lỗi từ phía ông H mà lỗi từ cơ quan chủ quản như đã nêu trên.

[2.4] Ông Trần Văn H không đồng ý nhận tiền bồi thường do Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên thực hiện việc giải tỏa, bồi thường đối với 2899,2m2 của ông Trần Văn H trái các quy định của pháp luật về giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nên ông Trần Văn H có đơn khiếu nại việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2899,2m2 đất của ông H đến UBND thị xã T.

 Ngày 29/5/2015 UBND thị xã T ban hành Công văn số 3131/UBND-TD trả lời đơn của ông Trần Văn H, cho rằng Trung tâm phát triển quỹ đất đã bồi thường, hỗ trợ với diện tích 2899,2m2 đất của ông Trần Văn H bị thu hồi là đúng trình tự, thủ tục thu hồi và bồi thường.

[2.5] Không đồng ý với kết quả giải quyết của UBND thị xã T tại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015, ông Trần Văn H tiếp tục khiếu nại đến UBND thị xã T yêu cầu hủy bỏ Công văn số 3131/UBND-TD, đồng thời yêu cầu UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H theo đúng quy định của pháp luật; hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ tái định cư và xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương.

Ngày 30/12/2015 Chủ tịch UBND thị xã T ban hành Quyết định số 6465/QĐ[1]UBND bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T.

[2.6] Không đồng ý với việc UBND thị xã T giải quyết khiếu nại trên, ngày 11/10/2017 ông Trần Văn H khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh B.

Tại Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, với nội dung:

Việc ông Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên trong trường hợp này, Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Tân Uyên không “gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” đến ông Trần Văn H là người có đất bị thu hồi mà chỉ mời ông H đến UBND xã Khánh Bình để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất là trái với quy định của pháp luật. Ngoài ra theo khoản 1 Điều 93 Luật đất đai năm 2013 quy định “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi” và khoản 2 Điều 93 quy định “Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả”. Như vậy có căn cứ pháp lý để xem xét xác định việc ông Trần Văn H khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định như trên là đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn H.

Từ các nhận định nêu trên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án sơ thẩm hủy các quyết định về thu hồi đất, về phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư và quyết định giải quyết khiếu nại, giao cho UBND thị xã T giải quyết lại.

[Nguồn: Bản án số 427/2019/HC-PT ngày 09/7/2019 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 427/2019/HC-PT

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan