Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Sửa án sơ thẩm công nhận hiệu lực một phần của hợp đồng chuyển nhượng vì hợp đồng không tuân thủ về mặt hình thức nhưng các bên đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Sửa án sơ thẩm công nhận hiệu lực một phần của hợp đồng chuyển nhượng vì hợp đồng không tuân thủ về mặt hình thức nhưng các bên đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Kháng cáo của bị đơn thực hiện đúng theo quy định tại Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thạnh thực hiện đúng theo Điều 278, Điều 279, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn ông Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, do đó căn cứ vào khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông H.

[3] Về giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Bùi Thị Đ:

[3.1] Xét giao dịch giữa ông M, bà S và bà Đ ký ngày 13/3/2004 và ngày 09/9/2004: Nguyên đơn xác định đây là giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bị đơn bà Đ xác định đây là giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất. Để chứng minh cho lời trình bày của mình nguyên đơn ông Đặng Văn M và bà Trần Thị S đã cung cấp cho Tòa án hai giấy tay ngày 13/03/2004 và ngày 09/09/2004 có tiêu đề là “hợp đồng chuyển nhượng đất”, hai hợp đồng này đều do ông Nguyễn Văn H là con ruột bà Bùi Thị Đ viết và đều có chữ ký của ông H, bà Đ, việc các bên ký tên có xác nhận của chính quyền ấp K và những người làm chứng cùng sinh sống ở địa phương biết. Ông M và bà S còn cung cấp các giấy biên nhận, nhận tiền chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn H và bà Bùi Thị Đ với số tiền 85.460.000 đồng. Tại biên bản hòa giải xã T ngày 30/7/2015 và Báo cáo chuyển đơn của Ủy ban nhân xã T số 210/BC[1]UBND ngày 12/8/2015 thể hiện bà Đ thừa nhận có nhận của ông M số tiền là 85.460.000 đồng và 3.000.000 đồng tiền đường bơm nước như lời trình bày của ông M, bà S. Ngoài ra, những người làm chứng sinh sống tại địa phương như: Ông Q, ông S1, ông Ấ, ông G, ông M1, bà H1, bà C, bà N2, ông B1, ông K1, bà N1 đều xác nhận ông Nguyễn Văn H là con ruột của bà Bùi Thị Đ và bà Đ có chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đặng Văn M và bà Trần Thị S. Bà Đ xác định đây là giao dịch cầm cố tài sản và xác định chữ ký trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do nguyên đơn cung cấp không phải là của bà nhưng không đưa ra bất kỳ chứng cứ nào chứng minh cho lời trình bày của mình nên không có sở để chấp nhận lời trình bày của bà Đ. Từ đó, có cơ sở xác định giao dịch mà các bên ký kết là giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

[3.2] Xét Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông M, bà S với bà Đ, ông H ngày 13/3/2004 và ngày 09/9/2004, thấy rằng: Về hình thức hợp đồng chỉ được xác lập bằng giấy tay, không đảm bảo điều kiện về hình thức được quy định tại khoản 2 Điều 122, Điều 689 Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, thực tế ông M, bà S đã giao đủ tiền và nhận đất quản lý sử dụng ổn định từ năm 2004 và tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 24/7/2018 của Toà án nhân dân huyện Tân Thạnh cũng xác định hiện phần đất tranh chấp do ông M, bà S canh tác trồng lúa, sự việc này cũng được bà Đ thừa nhận nên căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đây là tình tiết không phải chứng minh. Nhận thấy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên không tuân thủ về mặt hình thức nhưng nguyên đơn đã giao đủ tiền chuyển nhượng cho bị đơn và bị đơn đã giao đất cho nguyên đơn sử dụng từ năm 2004, lẽ ra phải căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Án lệ số 55/2022/AL để công nhận toàn bộ hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, căn cứ Văn bản số 2741/UBND-NC ngày 17/8/2023 của Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Long An thì diện tích đất chuyển nhượng đối với Khu G, Khu F, Khu B, Khu C không đủ điều kiện tách thửa theo Quyết định số 42/2021/QĐ-UBND ngày 18/10/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh L nên không thể công nhận cho nguyên đơn phần đất này và cần tuyên bố vô hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/3/2004 và ngày 09/9/2004 đối với phần đất tại Khu G, Khu F, Khu B, Khu C của Mảnh trích đo địa chính 77-2023 nêu trên, công nhận một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/3/2004 và ngày 09/9/2004 đối với phần đất tại Khu A của Mảnh trích đo địa chính số 77-2023 có hiệu lực do đủ điều kiện tách thửa nên ông M, bà S được quyền sử dụng phần đất có diện tích 8.718m2 thuộc một phần thửa đất số 549, tờ bản đồ số 05, toạ lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Long An.

[3.3] Theo Biên bản định giá tài sản ngày 12/4/2023 thì các loại đất đang tranh chấp BHK, LUC là 110.000đồng/m2 và nguyên đơn cũng thống nhất giá các loại đất đang tranh chấp bao gồm cả ONT, BHK, LUC đều là 110.000đồng/m2 nên Hội đồng xét xử căn cứ vào giá tại Biên bản định giá tài sản ngày 12/4/2023 để giải quyết vụ án. Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đất vô hiệu một phần đối với phần đất thuộc Khu G, Khu F, Khu B, Khu C nên căn cứ Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc bị đơn bà Đ, ông H là người có quyền sử dụng đối với các thửa đất số 605, 602, 554, 596, cùng tờ bản đồ số 06, toạ lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Long An phải hoàn trả cho ông M, bà S số tiền đã nhận tương đương với giá đất tại thị trường thời điểm xét xử, cụ thể như sau:

Phần đất Khu G có diện tích 34m2 thuộc một phần thửa 605, tờ bản đồ số 6, loại đất ONT: 110.000đồng/m2 x 34m2 = 3.740.000 đồng.

Phần đất Khu F có diện tích 52m2 thuộc một phần thửa 602, tờ bản đồ số 6, loại đất BHK: 110.000đồng/m2 x 52m2 = 5.720.000 đồng.

Phần đất Khu B có diện tích 620m2 do trừ đi diện tích đường nước đã rút yêu cầu là 219m2 nên còn lại 401m2 thuộc một phần thửa 554, tờ bản đồ số 6, loại đất BHK: 110.000đồng/m2 x 401m2 = 44.110.000 đồng.

Phần đất Khu C có diện tích 880m2 do trừ đi diện tích đường nước đã rút yêu cầu là 30m2 nên còn lại 850m2 thuộc một phần thửa 596, tờ bản đồ số 6, loại đất LUC: 110.000đồng/m2 x 850m2 = 93.500.000 đồng.

Tổng cộng, bà Đ và ông H phải liên đới hoàn trả lại cho ông M, bà S số tiền là 147.070.000 đồng.

[4] Đối với yêu cầu khởi kiện phần chuyển nhượng đường dẫn nước tưới tiêu và phần tiền mua đường nước 3.000.000 đồng, ông M và bà S rút lại yêu cầu này nên căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Toà án cấp sơ thẩm đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông M và bà Đ là phù hợp.

[5] Với nhận định nêu trên, có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo của bà Bùi Thị Đ, căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử sửa một phần bản án sơ thẩm: Công nhận một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập ngày 13/3/2004 và ngày 09/9/2004 giữa ông Đặng Văn M, bà Trần Thị S với bà Bùi Thị Đ, ông Nguyễn Văn H đối với phần đất có diện tích tại Khu A của Mảnh trích đo địa chính có hiệu lực pháp luật. Ông Đặng Văn M, bà Trần Thị S được sử dụng phần đất có diện tích 8.718m2 thuộc một phần thửa đất số 549, tờ bản đồ số 05, toạ lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Long An thuộc Khu A của Mảnh trích đo địa chính số 77-2023. Tuyên bố vô hiệu một phần hợp đồng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập ngày 13/3/2004 và ngày 09/9/2004 giữa ông Đặng Văn M, bà Trần Thị S với bà Bùi Thị Đ, ông Nguyễn Văn H đối với phần đất tại Khu G, Khu F, Khu B, Khu C của Mảnh trích đo địa chính số 77-2023, bà Bùi Thị Đ, ông Nguyễn Văn H phải liên đới hoàn trả cho ông M, bà S số tiền 147.070.000 đồng. Kháng cáo của bà Bùi Thị Đ đối với tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản và yêu cầu trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phù hợp nên không chấp nhận.

[6] Xét thấy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thạnh và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phù hợp nên chấp nhận.

[7] Về chi phí tố tụng sơ thẩm: Chi phí đo đac, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá là 10.025.033 đồng, buộc bị đơn bà Bùi Thị Đ và ông Nguyễn Văn H phải liên đới chịu 2/3 là 6.684.000 đồng, nguyên đơn ông M, bà S phải liên đới chịu 1/3 là 3.341.000 đồng. Do nguyên đơn đã tạm nộp toàn bộ nên bà Đ, ông H phải liên đới hoàn trả cho ông Đặng Văn M và bà Trần Thị S 6.684.000 đồng. Bà Bùi Thị Đ và ông Nguyễn Văn H phải chịu tiền giám định chữ ký 1.380.000 đồng (đã chi xong).

[8] Về chi phí tố tụng phúc thẩm là 8.632.000 đồng: Buộc bi đơn bà Bùi Thị Đ và ông Nguyễn Văn H phải liên đới chịu 2/3 là 5.755.000 đồng, nguyên đơn ông M, bà S phải liên đới chịu 1/3 là 2.877.000 đồng. Do bị đơn bà Đ đã tạm nộp toàn bộ nên ông M, bà S phải liên đới hoàn trả cho bà Đ số tiền 2.877.000 đồng.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Bùi Thị Đ và ông Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng đối với yêu cầu tuyên bố vô hiệu toàn bộ hợp đồng cầm cố tài sản không được chấp nhận và án phí đối với số tiền phải hoàn trả cho nguyên đơn là 7.353.500 đồng, tổng cộng là 7.653.500 đồng, bà Bùi Thị Đ thuộc diện người cao tuổi, gia đình có công cách mạng nên được miễn án phí. Ông Nguyễn Văn H phải chịu 3.826.750 đồng. Ông M, bà S phải liên đới chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu nhưng khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Hoàn trả cho ông M, bà S tiền tạm ứng án phí còn thừa.

[10] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của bị đơn được chấp nhận một phần nên bị đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[Nguồn: Bản án số 350/2023/DS-PT ngày 29/9/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 350/2023/DS-PT

…………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan