NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của ông Dương Đức L làm trong hạn luật định nên thủ tục kháng cáo hợp lệ.
[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu của đương sự:
[2.1] Đối với quan hệ hôn nhân, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận việc thuận tình ly hôn và cho các bên đương sự được ly hôn, các bên đương sự không kháng cáo nên phần này đã có hiệu lực pháp luật.
[2.2] Đối với yêu cầu về việc tranh chấp nuôi con chung, theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ nuôi con chung. Thực tế ông L và bà Q đều có điều kiện để nuôi các con chung, 2 con chung của ông bà đều là giới tính nam. Tòa án cấp sơ thẩm giao cho bà Q nuôi 2 con chung là chưa phù hợp với thực tế và điều kiện nuôi con chung của 2 bên đương sự và cũng chưa đúng quy định pháp luật về hôn nhân gia đình như đã viện dẫn, do đó có cơ sở để chấp nhận 1 phần yêu cầu kháng cáo này của phía ông L. Giao cho ông L nuôi 1 con chung là phù hợp, mỗi người sẽ phải nuôi 1 con chung và không ai phải chịu đối với số tiền cấp dưỡng về việc nuôi con, tạo điều kiện để cho các bên được đến thăm nom con và chăm sóc con theo quy định của pháp luật.
[2.3] Đối với tranh chấp về phần diện tích đất là tài sản chung, phần diện tích đất này có 2 thửa gồm: Diện tích 15.247,6m2 và diện tích 5.195,7m2, cộng chung là 20.443,3m2.
Theo tài liệu định giá của Tòa án cấp sơ thẩm thì giá trị đất là 30.000đồng/1m2 thành tiền 613.299.000đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã chia giá trị cho mỗi người được 1/2 là 306.649.500đồng, trong đó giao đất cho phía ông L được quyền sử dụng và sở hữu, ông L sẽ hoàn tiền lại cho phía bà Q. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm cũng như quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm ông L không đồng ý nhận đất.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã tạo điều kiện ngừng phiên tòa cho bà Q và ông L suy nghĩ để xác định việc nhận hiện vật hay là nhận giá trị. Do bà Q và ông L không ai đồng ý nhận hiện vật và phần đất này có một con đường nước để dẫn nước vào tưới tiêu, nên không thể chia tài sản theo hiện vật làm hai phần được, do đó có cơ sở để Tòa án tuyên phát mãi đối với phần diện tích đất nêu trên, giao cho Cơ quan Thi hành án thực hiện các trình tự thủ tục phát mãi ở tại giai đoạn thi hành án, nếu phát mãi giá trị là bao nhiêu thì sẽ chia thành hai phần tiền cho 2 bên đương sự là phù hợp.
[2.4] Đối với xe ô tô tải nhãn hiệu Suzuki biển kiểm soát 94C-035.91 thì các bên đương sự thống nhất giá trị là 200.000.000đồng, Tòa án cấp sơ thẩm đã chia giá trị thành 2 phần là mỗi người được 100.000.000đồng giao cho bà Q quản lý sở hữu chiếc xe này và hoàn lại 100.000.000đồng cho phía ông L là phù hợp, các bên đương sự không kháng cáo về phần này.
[2.5] Đối với giá trị hàng hóa tại cơ sơ kinh doanh vật tư nông nghiệp Phương Diệu, bà Q xác định toàn bộ giá trị hàng hóa còn lại là 30.000.000đồng, ông L thì cho rằng giá trị đầu tư là hơn 800.000.000đồng, tuy nhiên quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm ông L không đưa ra được những tài liệu chứng cứ gì để chứng minh cho giá trị còn lại đối với hàng hóa là 800.000.000đồng, do đó Tòa án cấp sơ thẩm xác định giá trị hàng hóa còn lại là 30.000.000đồng và chia làm hai phần là tài sản chung vợ chồng là phù hợp.
Ông L kháng cáo phần này, nhưng tại cấp phúc thẩm ông cũng không đưa ra được những tài liệu, chứng cứ gì mới chứng minh cho yêu cầu của mình, nên không có cơ sở chấp nhận.
[2.6] Đối với phần nợ Ngân hàng TMCP Sài Gòn CT số tiền 400.000.000đồng, ông L đã cung cấp tài liệu để xác định trả cho ngân hàng 400.000.0000đồng vào ngày 24/11/2021, bà Q cũng đồng ý sẽ hoàn lại số tiền 200.000.000đồng trong phần của bà cho ông L, phần này các bên đương sự đã thống nhất và đồng ý đối với việc hoàn lại số tiền nêu trên nên Tòa án cấp phúc thẩm ghi nhận.
[2.7] Đối với nợ vay của bà Dương Thị Thanh Ng số tiền 500.000.000đồng và lãi 175.000.000đồng, cộng chung là 675.000.000đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định mỗi người phải chịu trả ½ số nợ, vì là nợ chung vợ chồng là phù hợp.
Ông L kháng cáo về phần này cho rằng, đây là nợ riêng của bà Q, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập các tài liệu, chứng cứ thể hiện quá trình mượn nợ ông L có tham gia trực tiếp trong việc nhận số tiền này, do đó cấp phúc thẩm giữ nguyên đối với phần này.
[3] Về án phí Hôn nhân gia đình và dân sự sơ thẩm: Các bên đương sự phải chịu theo luật định.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên phía ông L không phải chịu.
[5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.
[Nguồn: Bản án số 06/2022/HNGĐ-PT Ngày 17/3/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn Bản án: 06/2022/HNGĐ-PT