NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đã rút Quyết định kháng nghị số 05/QĐ[1]VKS-P1 ngày 21/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ quy định tại Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị trên.
[2] Hồ sơ vụ án thể hiện hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:
– Ngày 14/01/2021, Nguyễn Phương T lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả tên Trang Như K, Chứng minh nhân dân của ông Trang Như K, Chứng minh nhân dân của Nguyễn Phương T và giấy chứng nhận đăng ký kết hôn giữa ông Trang Như K với Nguyễn Phương T đến Văn phòng công chứng Trần Văn N2 để làm hợp đồng ủy quyền từ Trang Như Khoa cho Nguyễn Phương T có toàn quyền quyết định đối với quyền sử dụng đất trên.
– Ngày 15/01/2021, Nguyễn Phương T mang theo hợp đồng ủy quyền và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả tên Trang Như K cùng ông Lê Văn H đến Văn phòng C7 để tiến hành công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khi công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xong, ông Lê Văn H đưa cho Nguyễn Phương T 700.000.000 đồng, Nguyễn Phương T đưa cho ông Lê Văn H giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả tên Trang Như K. Tuy vậy, Văn phòng công chứng Huỳnh Văn C3 không thực hiện việc cập nhật chia sẻ thông tin lên phần mềm cơ sở dữ liệu công chứng về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin khác về biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch do công chứng viên của tổ chức mình công chứng.
– Ngày 17/3/2021, Nguyễn Phương T đã tự ý lấy Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân tên Trang Như Khoa, sổ hộ khẩu do ông Trang Như K đứng tên chủ hộ và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên Trang Như K đến Văn phòng C5 để yêu cầu công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trần Linh D3. Nguyễn Phương T sử dụng hợp đồng ủy quyền đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên Trang Như Khoa nêu trên để yêu cầu công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trần Linh D3 nhưng Đỗ Hoàng C1 là Công chứng viên không đồng ý sử dụng hợp đồng ủy quyền mà yêu cầu phải do chính ông Trang Như K thực hiện. Đỗ Hoàng C1 cho bà Nguyễn Thị Hồng G nhân viên của Văn phòng công chứng đi cùng Nguyễn Phương T để cho ông Trang Như K ký vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và các thủ tục liên quan đến công chứng. Sau khi Nguyễn Văn Q ký tên và điểm chỉ (do Nguyễn Phương T thuê đóng giả ông Trang Như K). Sau khi bà Nguyễn Thị Hồng G (nhân viên Văn phòng C5) mang hợp đồng có chữ ký và điểm chỉ tên Trang Như K (do bị cáo Nguyễn Văn Q ký), và kiểm tra thông tin trên hệ thống không có cập nhật giao dịch đối với thửa đất trên, bị cáo Đỗ Hoàng C1 đã công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên. Sau khi được công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông Trần Linh D3 đưa 850.000.000 đồng cho Nguyễn Phương T và giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên Trang Như K cùng một bản Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng. Sau đó, Nguyễn Phương T nhận tiền của ông Trần Linh D3 nhiều lần. Tổng số tiền Nguyễn Phương T chiếm đoạt của ông Trần Linh D3 từ việc ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 2.200.000.000 đồng.
– Ngày 09/6/2021, Nguyễn Phương T cùng ông Đỗ Văn T3, vợ ông Đỗ Văn T3 là bà Nguyễn Kim N1 và ông Lê Văn H đến Văn phòng công chứng Huỳnh Văn C3 để ký hủy bỏ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Nguyễn Phương T với ông Lê Văn H. Cùng thời điểm này, Nguyễn Phương T sử dụng hợp đồng ủy quyền giả được Văn phòng công chứng Trần Văn N2 công chứng và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả tên Trang Như K, lấy lại từ ông Lê Văn H để ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tên Trang Như K sang cho ông Đỗ Văn T3 và bà Nguyễn Kim N1. Sau khi hoàn tất việc công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Nguyễn Phương T nhận của ông Đỗ Văn T3 thêm 1,8 tỷ đồng, Nguyễn Phương T trả cho ông Lê Văn H vay là 700.000.000 đồng.
Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Nguyễn Phương T phạm các tội về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 4 Điều 174; “Rửa tiền” theo Khoản 3 Điều 324; “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan” theo Khoản 3 Điều 314; Xử phạt 14 (mười bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” ;10 (mười) năm tù về tội “Rửa tiền”; 03 (ba) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan”; Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 03 tội là 27 (hai mươi bảy) năm tù; Bị cáo Nguyễn Văn Q 04 (bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Bị cáo Đỗ Hoàng C1 03 (ba) năm tù về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.
[3] Xét nội dung Quyết định kháng nghị số 28/QĐ/VC3-V1 ngày 28/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh:
[3.1] Ngày 15/01/2021 Văn phòng C7 công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bị cáo Nguyễn Phương T và ông Lê Văn H (sử dụng hợp đồng ủy quyền và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả tên Trang Như K để thực hiện). Sau khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng nêu trên, Văn phòng công chứng Huỳnh Văn C3 không thực hiện việc cập nhật chia sẻ thông tin lên phần mềm cơ sở dữ liệu công chứng về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin khác về biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch do công chứng viên của tổ chức mình công chứng, đã vi phạm quy định tại Điều 62 Luật Công chứng, Điều 23 Thông tư số 01/2021/TT-BTP ngày 03/02/2021 của Bộ Tư pháp, Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Công chứng về Cơ sở dữ liệu công chứng và điểm i khoản 2 Điều 16, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính Phủ, Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bỗ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Hành vi sai phạm này là nguyên nhân chính dẫn đến hậu quả về các hành vi phạm tội của bị cáo T tại các Văn phòng công chứng (hành vi sai trái của Văn phòng công chứng Huỳnh Văn C3 tạo điều kiện cho bị cáo T chiếm đoạt tiếp theo đối với các bị hại khác). Vì vậy, mặc dù hành vi của bị cáo Đỗ Hoàng C1 cử nhân viên văn phòng công chứng mang hồ sơ ra khỏi văn phòng để ký hợp đồng là sai, nhưng lỗi sai này không phải là nguyên nhân dẫn đến hậu quả làm cho bị cáo T chiếm đoạt được tiền của bị hại Trần Linh D3. Bởi, trong trường hợp này cho dù chính ông Trang Như K trực tiếp đến Văn phòng C5 để ký hợp đồng đúng quy định pháp luật, thì công chứng viên cũng không thể chứng nhận giao dịch này nếu trước đó Văn phòng công chứng Huỳnh Văn C3 đã có cập nhật giao dịch trên hệ thống. Do vậy, vụ án có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội.
[3.2] Mặt khác, ngày 15/11/2021 Thanh tra Sở Tư pháp tỉnh Bạc Liêu đã có Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng số 02/QĐ[1]XPVPHC đối với hành vi của công chứng viên Đỗ Hoàng C1. Hiện nay, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính vẫn đang có hiệu lực pháp luật. Theo nội dung nêu tại mục [3.1] thì công chứng viên Đỗ Hoàng C1 chỉ có 01 hành vi sai phạm. Vậy, cùng một hành vi vi phạm nhưng bị cáo C1 vừa bị xử lý hành chính, vừa bị xử lý hình sự là không đúng quy định pháp luật. Hơn nữa, hành vi của bị cáo C1 không có mối quan hệ nhân quả với hậu quả nghiêm trọng trong vụ án. Đây là một trong những nội dung thể hiện sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
[3.3] Sau khi chiếm đoạt tiền của những người bị hại, bị cáo Nguyễn Phương T đã sử dụng một phần số tiền này để trả chi phí môi giới cho ông Nguyễn Tấn N4 176.000.000 đồng (vụ thứ nhất 26.000.000 đồng, vụ thứ ba 150.000.000 đồng), bà Nguyễn Thị N5 150.000.000 đồng (vụ thứ ba). Tổng cộng là 326.000.000 đồng. Đây là tiền do phạm tội mà có nên cần phải thu hồi để hoàn trả cho những người bị hại. Bản án sơ thẩm không tuyên buộc ông Nguyễn Tấn N4 và bà Nguyễn Thị N5 phải nộp lại số tiền nêu trên là không đúng quy định tại Khoản 2 Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã có nhiều sai sót trong quá trình tố tụng, gây ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về nội dung đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra xét xử lại theo quy định pháp luật là có căn cứ chấp nhận.
[5] Xét kháng cáo của các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
[5.1] Đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phương T: Căn cứ vào lời khai của bị cáo T, lời khai của ông Nguyễn Hữu T10 và tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án là bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 73/2022/KDTM-PT ngày 26/10/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (đã có hiệu lực pháp luật) không thể hiện bị cáo là nhà đầu tư, thì nội dung kháng cáo kêu oan của bị cáo về tội “Rửa tiền” là có cơ sở để xem xét. Do đó, trong quá trình giải quyết lại vụ án (do hủy bản án sơ thẩm), cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét hành vi của bị cáo T có đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Rửa tiền” theo quy định pháp luật.
[5.2] Đối với kháng cáo của bị cáo Đỗ Hoàng C1 và Văn phòng công chứng Nguyễn Thiên N7: Nội dung kháng cáo trùng với nội dung kháng nghị, nên được chấp nhận.
Ngoài ra, theo nội dung nêu tại mục [3] thì số tiền 1.500.000.000 đồng (Một tỷ, năm trăm triệu đồng) mà bị cáo Đỗ Hoàng C1 đã nộp tại cơ quan thi hành án, sẽ được xem xét theo đề nghị của người nộp tiền khi điều tra, giải quyết lại vụ án để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo C1 theo quy định pháp luật.
[5.3] Đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q, kháng cáo của bị hại Trần Linh D3 và kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hữu T10, Văn phòng C4, Ngân hàng Thương mại cổ phần B thì Hội đồng xét xử phúc thẩm chưa xem xét, do chấp nhận quyết định kháng nghị về việc hủy bản án sơ thẩm để điều tra giải quyết lại vụ án theo quy định pháp luật.
[6] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 28/QĐ/VC3-V1 ngày 28/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phương T, Đỗ Hoàng C1 và Văn phòng C5 (nay là Văn phòng C6); Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại vụ án.
[6] Án phí phúc thẩm: Các bị cáo và người có kháng cáo không phải chịu.
[Nguồn: Bản án số 1003/2023/HS-PT ngày 27/5/2022 của TÒA ÁN NHÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 1003/2023/HS-PT
…………….
Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn