Feel free to go with the truth

Trang chủ / BIỂU MẪU VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Bản án bị hủy do chưa làm rõ nội dung đưa và nhận hối lộ

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] Bản án bị hủy do chưa làm rõ nội dung đưa và nhận hối lộ

03. Bản án hình sự phúc thẩm hủy án sơ thẩm do chưa làm rõ nội dung đưa và nhận hối lộ

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo của các bị cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo NVM, THA, HVH và LXD làm trong hạn luật định nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung kháng cáo: Xét kháng cáo của các bị cáo, nhận thấy: [2.1] Về hành vi bị truy tố:

Bản cáo trạng số 10/CTr-VKS-P3 của VKSND tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo NVM có hành vi nhận 350.000.000 đồng của các bị cáo LXD và TTD; bị cáo THA nhận 50.000.000 đồng từ bị cáo NVM và mục đích nhận tiền của 02 bị cáo là để:

–        “…làm hồ sơ cho LXD và TTD khai thác trước khi có chủ trương của UBND huyện Tuy Đức”;

–        “và ký xác nhận khống vào bảng kê lâm sản, biên bản xác minh nguồn gốc gỗ đã khai thác”.

Xét thấy:

Tại Quyết định số 1305/QĐ-UBND, ngày 10/8/2010 của UBND huyện Tuy Đức đã giao 1.198,7 ha rừng và đất lâm nghiệp (trong đó có 92,8 ha rừng thông) cho cộng đồng bon Bu Koh, xã Đắk R’Tih quản lý bảo vệ, sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Cộng đồng bon Bu Kol đã được cấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bị cáo HVH là Trưởng Ban quản lý rừng cộng đồng. Tại Quyết định này chỉ ra trách nhiệm của UBND xã Đắk R’Tih là “Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với UBND xã Đắk R’Tih xác định ranh giới và bàn giao rừng trên thực địa”.

Tại Điều 6, Điều 13 Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ, về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng của UBND cấp xã, thì việc quyết định khai thác rừng không phải của Chủ tịch UBND cấp xã.

 Tại Điều 6 Thông tư số 21/2016/TT-BNNPTNT ngày 28/6/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, quy định về khai thác chính và tận dụng, tận thu lâm sản quy định:

“1. Khai thác chính, tận dụng, tận thu gỗ rừng trồng là rừng sản xuất

a) Việc khai thác, tận dụng, tận thu gỗ rừng trồng tập trung trong rừng sản xuất do chủ rừng quyết định, nếu khai thác trắng phải trồng lại rừng mới ngay vụ trồng rừng kế tiếp.

b) Trước khi khai thác, tận dụng, tận thu gỗ báo cáo bằng văn bản với cấp thẩm quyền biết về địa danh, khối lượng gỗ khai thác để tổng hợp báo cáo, theo dõi, giám sát trong quá trình thực hiện và xác nhận nguồn gốc gỗ khi lưu thông tiêu thụ, cụ thể:

Chủ rừng là tổ chức, gửi bảng kê lâm sản đến Hạt Kiểm lâm sở tại hoặc Chi cục Kiểm lâm (nơi không có Hạt kiểm lâm),

Chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, gửi bảng kê lâm sản đến Ủy ban nhân dân cấp xã.

c) Tổ chức khai thác, tận dụng, tận thu và nghiệm thu lâm sản:

Chủ rừng tổ chức khai thác, tận dụng, tận thu theo quy định; đo đếm tính toán khối lượng và lập bảng kê lâm sản sau khi khai thác, tận dụng, tận thu”.

Theo các quyết định, văn bản pháp luật vừa viện dẫn thì người có thẩm quyền quyết định khai thác, tận dụng, tận thu là chủ rừng mà cụ thể là Cộng đồng bon Bu Koh mà người đại diện là bị cáo HVH. Bị cáo NVM là Chủ tịch UBND xã không có quyền này. Do đó, Bản cáo trạng số 10/CTr-VKS-P3 truy tố và bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo NVM, LXD có hành vi nhận tiền của các bị cáo LXD, TTD để “…làm hồ sơ cho LXD và TTD khai thác trước khi có chủ trương của UBND huyện Tuy Đức” là không đúng pháp luật.

[2.2] Về mục đích đưa và nhận 350 triệu đồng của các bị cáo: Các bị cáo NVM, LXD và TTD có nhiều lời khai khác nhau về mục đích đưa, nhận tiền. Có lúc khai là để được khai thác, sau khai thác xin được trồng cây con, quản lý, khai thác cây con về sau; có lúc khai đưa tiền để được khai thác, sau khai thác trồng khoai lang; lúc thì khai mục đích duy nhất là để được khai thác. Các bị cáo kháng cáo cho rằng mục đích đưa nhận tiền là thuê đất trồng khoai lang, điều này chưa được làm rõ. Mặt khác, diễn biến vụ án cho thấy thực tế bị cáo NVM có cho người trồng một số cây thông trên diện tích đất 9,6 ha đã khai thác cây thông. Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo NVM khai có trồng khoảng 25.000 cây thông con, tiền mua giống là của cộng đồng, tiền đào hố là của bị cáo và chi phí hết 70 triệu đồng. Vậy kinh phí trồng những cây thông mới này của ai? Hồ sơ chỉ có một lời khai của bị cáo NVM là do bị cáo bỏ ra với tư cách cá nhân.

Điều này là mâu thuẫn giữa lời khai của bị cáo NVM và thực tế có việc trồng lại rừng; thiếu tính logic.

[2.3] Về việc bà Huỳnh Thị Nhã Uyên trả lại tiền cho bị cáo LXD; về trách nhiệm hình sự của bị cáo NVM đối với số tiền nhận hối lộ:

Tại phiên toà phúc thẩm, các Luật sư bào chữa cho bị cáo NVM xuất trình “Giấy biên nhận” đề ngày 22/01/2018, thể hiện tại thời điểm được ghi trong giấy biên nhận, bà Uyên (vợ bị cáo NVM) đã giao cho bị cáo LXD 300 triệu đồng để trả lại cho ông TVM. Nếu quy buộc bị cáo NVM nhận hối lộ tổng cộng 350 triệu thì tại sao chỉ trả lại 300 triệu. Mâu thuẫn này chưa được điều tra làm rõ.

Kết luận điều tra, Cáo trạng quy buộc bị cáo NVM nhận hối lộ tổng cộng 350 triệu đồng của bị cáo LXD và TTD, nhưng bản án sơ thẩm chỉ buộc bị cáo NVM chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền 300 triệu đồng, trả lại cho bị cáo 50 triệu đồng là không đúng. Điều này là mâu thuẫn và ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt nếu trường hợp bị cáo NVM có tội.

[2.4] Về Nghị quyết số 16/2017/NQ-HĐND ngày 18/8/2017 của Hội đồng nhân dân xã Đắk R’Tih: Bị cáo NVM kháng cáo cho rằng bị cáo nhận tiền của các bị cáo LXD, TTD là để cho thuê đất trồng khoai lang sau khi khai thác xong, dựa trên cơ sở nghị quyết này. Ngoài nhận định về thẩm quyền cho thuê đất, bản án sơ thẩm cho rằng nghị quyết này không có giá trị vì ngày ban hành và ngày có hiệu lực mâu thuẫn với nhau. Bị cáo NVM và các Luật sư cho rằng đây chỉ là sai sót về mặt đánh máy. Cơ quan điều tra chưa xác minh làm rõ tại thời điểm ngày 18/8/2017 Hội đồng nhân dân xã Đắk R’Tih có tổ chức phiên họp để ban hành nghị quyết này không.

Từ các nhận định nêu trên nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm chưa đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được, như truy tố, xét xử chưa đúng hành vi của bị cáo; chưa làm rõ mục đích đưa, nhận số tiền 350 triệu đồng; chưa làm rõ số tiền mà bị cáo NVM đã bỏ ra để trồng lại rừng; chưa làm rõ vấn đề bà Uyên trả lại tiền cho ông Mến; xác định trách nhiệm hình sự của bị cáo NVM chưa phù hợp với số tiền mà bị cáo đã nhận…Do đó, bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo LXD, TTD về “Tội đưa hối lộ”; bị cáo NVM, THA về “Tội nhận hối lộ” là chưa có cơ sở vững chắc. Cần huỷ phần tội danh và hình phạt của “Tội đưa hối lộ” và “Tội nhận hối lộ” đối với các bị cáo LXD, TTD, NVM, Anh của bản án sơ thẩm.

[3] Đối với bị cáo HVH: Bản án sơ thẩm xác định bị cáo HVH nhận hối lộ 20 triệu đồng từ bị cáo LXD là có căn cứ. Tuy nhiên để cân đối, cá thể hoá hình phạt của từng bị cáo trong vụ án nên cần thiết phải huỷ cả phần này.

Từ những phân tích nêu trên, xét thấy kháng cáo của các bị cáo NVM, HVH, THA, LXD và đề nghị của các Luật sư bào chữa cho các bị cáo là có căn cứ để chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là chưa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[4] Các quyết định về tội danh, hình phạt, án phí hình sự sơ thẩm của “Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản”, đối với các bị cáo LXD, TTD, NLQ, TNS; các quyết định về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp quy định tại mục [2] phần quyết định của bản án sơ thẩm (trừ mục [2.3]) không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo LXD, THA, NVM và HVH không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

 [Nguồn: Bản án phúc thẩm số 222/2022/HS-PT Ngày 21/4/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn Bản án: Bản án phúc thẩm số 222/2022/HS-PT Ngày 21/4/2022

Bài viết liên quan