NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về sự vắng mặt của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn Phòng công chứng số 01 tỉnh H có đơn xin xét xử vắng mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T (Nguyễn T) vắng mặt (dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ). Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[1.2] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông T còn trong thời hạn luật định, nên có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.
[2] Về nội dung kháng cáo: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện: Ông M và bà L có 3 người con chung là T (Nguyễn T), sinh năm 1968, ông D, sinh năm 1970, ông T, sinh năm 1971. Ngoài ra, ông bà không có con riêng, con nuôi. Bà L chết năm 2011, ông M chết năm 2012.
Ngày 25/7/2007 ông M và bà L đến Phòng công chứng số 01 tỉnh H để công chứng Di chúc lập ngày 25/7/2007 nhằm định đoạt tài sản chung của ông bà (theo sổ chứng nhận sở hữu nhà số N ngày 27/5/1992 do Sở xây dựng H cấp cho ông M và bà L) do công chứng viên bà H thực hiện việc công chứng Di chúc.
[2.1] Nguyên đơn kháng cáo cho rằng: Di chúc bị tẩy xóa, sửa chữa, viết tắt, viết chồng, viết sai rất nhiều nhưng công chứng viên vẫn ký công chứng mà không kiểm tra đọc lại Di chúc, dẫn đến việc ông D hiểu sai về quyền, nên đã gây khó khăn cho gia đình ông. Qua xem xét bản chính Di chúc lưu giữ tại Phòng công chứng số 01 tỉnh H (Tòa án mượn theo công văn số 229/2021/CV-DS ngày 06/12/2021) thì bản Di chúc ghi ngày 25 tháng 7 năm 2007 do ông M và bà L cùng trú tại 16A Nguyễn T, phường T, thành phố N, tỉnh H lập, được công chứng tại Phòng công chứng số 01 tỉnh H ngày 25/7/2007 do công chứng viên H thực hiện (số công chứng 114 quyển số DC-TP/CC-SCC/HĐGD ngày 25/7/2007).
Hội đồng xét xử nhận thấy: Di chúc được viết tay, chữ viết rõ ràng, dễ đọc, không viết tắt, không viết chồng chữ, không có việc tẩy xóa, sửa chữa chữ viết và cuối mỗi trang đều có chữ ký của ông M, bà L và Công chứng viên H; nội dung Di chúc thể hiện ý nguyện của người lập Di chúc là ông M và bà L trực tiếp ký tên và điểm chỉ vân tay trước mặt Công chứng viên Phòng công chứng số 1 tỉnh H theo đúng quy định của Luật công chứng. Do đó, lời trình bày của nguyên đơn là không có cơ sở.
[2.2] Nguyên đơn cho rằng nội dung Di chúc viết sai ý, ở đoạn cuối của Di chúc viết tối nghĩa khó hiểu gây hiểu nhầm như “chúng tôi nhất trí giao cho con D quản lý và bảo vệ để lại của cha mẹ tạo dựng để lại cho các con ở tại đây”.
Tuy trong đoạn trên của Di chúc ông M và bà L không ghi cụ thể tài sản để lại nhưng ông, bà đã xác định tài sản trong Di chúc thuộc quyền sở hữu của ông bà là sổ chứng nhận sở hữu nhà số sổ 283/92/CNSHN ngày 27/5/1992. Theo đó, trong sổ chứng nhận sở hữu nhà đã thể hiện nhà đất tại 16A Nguyễn T, phường T , thành phố T đã được Sở Xây dựng tỉnh H cấp cho ông M và bà L và đây chính lại tài sản mà ông M, bà L đề cập trong Di chúc. Mặt khác, ông T và ông D cũng đều thừa nhận bản di chúc này do cha mẹ của các ông lập, nội dung của Di chúc liên quan đến việc cha mẹ của các ông để lại tài sản là căn nhà số 16A Nguyễn T, phường T , Thành phố T Do đó, có cơ sở xác định nội dung Di chúc ông M, bà L lập là để định đoạt tài sản của mình đối với nhà đất tại 16A Nguyễn T. Điều này thể hiện rõ trong nội dung của Di chúc: “Chúng tôi tự nguyện lập di chúc để định đoạt tài sản là căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chúng tôi sổ chứng nhận nhà Sở xây cấp sổ số 283/92/CNHN ngày 27/5/1992”. Trong di chúc, ông M và bà L thể hiện rõ ý chí trong việc định đoạt tài sản của mình là:“…Vợ chồng tôi nhất trí căn nhà nói trên để lại làm nhà từ đường thờ cúng tổ tiên họ nguyễn và 3 con tôi được ở đoàn tụ gia đình và tôn tạo khi bị xuống cấp…di chúc này chúng tôi lập trong tinh thần minh mẫn sáng suốt không bị lừa dối đe dọa hoặc cưỡng ép…chúng tôi nhất trí giao cho con trai trưởng quản lý và bảo vệ…” . Qua đó, cho thấy ông M, bà L thể hiện rất rõ ý nguyện của mình đề lại tài sản thuộc quyền sở hữu của ông bà là căn nhà tại 16A Nguyễn T, phường T, thành phố T, tỉnh H làm nhà từ đường, thờ cúng tổ tiên họ Nguyễn (tức là di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia thừa kế). Do trong phần đầu của bản di chúc người lập di chúc đã thể hiện rõ ý chí của mình, tài sản để lại dùng làm nơi thờ cúng, nên phần cuối của bản di chúc đã không lập lại ý trên, mà chỉ thêm ý giao quyền quản lý và bảo vệ tài sản được thừa kế của cha mẹ tạo dựng để lại cho ông D. Hơn nữa, ông M, bà L còn khẳng định đã lập di chúc trong lúc tinh thần còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối hay ép buộc. Như vậy, người lập di chúc đã thể hiện rõ ý chí, nguyện vọng của mình khi định đoạt tài sản và đây cũng chính là quyền của cá nhân được pháp luật thừa nhận theo Điều 609 Bộ luật dân sự. Nội dung di chúc cũng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật nên di chúc này hợp pháp theo quy định tại Điều 652, 653, 657 Bộ luật dân sự năm 2005. Do vậy, kháng cáo của nguyên đơn cho rằng nội dung di chúc viết sai ý, viết tối nghĩa, khó hiểu, gây hiểu nhầm là do cách hiểu của nguyên đơn, ngoài ra không có cơ sở nào khác để chấp nhận lời trình bày của nguyên đơn.
[2.3] Đối với nội dung kháng cáo: Hội đồng xét xử sơ thẩm không xem xét tài liệu do nguyên đơn cung cấp chứng minh ông M bị đục thủy tinh thể do tuổi già không nhìn thấy:
Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn gửi kèm theo đơn kháng cáo các tài liệu: Hóa đơn bán lẻ thuốc, Giấy ra viện, Sổ khám bệnh của ông M.
Tại biên bản phiên tòa dân sự sơ thẩm ngày 14/5/2021 của Tòa án nhân dân thành phố T không thể hiện việc nguyên đơn đã cung cấp các tài liệu cho Hội đồng xét xử sơ thẩm như nguyên đơn nêu.
Qua xem xét các tài liệu do nguyên đơn cung cấp nhận thấy: Trong sổ khám bệnh của ông M thể hiện tại thời điểm khám bệnh ngày 23/7/2001, thị lực mắt của ông M: Mắt phải đếm ngón tay ở khoảng cách tối đa là 1m; mắt trái đếm ngón tay ở khoảng cách tối đa là 9,8m; hai mắt thoái hóa hoàng điểm tuổi già; mắt phải đã mổ đặt Iol (kính nội nhãn); mắt trái đục thể thủy tinh tiến triển. Nhưng vào thời điểm lập di chúc ngày 25/7/2007 nguyên đơn lại không cung cấp các tài liệu gì để chứng minh mắt của ông M không nhìn thấy. Trong khi đó ông T và ông D đều thừa nhận di chúc được Phòng công chứng số 1 tỉnh H công chứng ngày 25/7/2007 là do cha mẹ các ông lập. Mặt khác, cuối bản di chúc có thể hiện người lập di chúc ký tên M và chữ ký của bà L. Do đó, nguyên đơn kháng cáo cho rằng ông M không thấy gì khi lập di chúc là không có căn cứ.
[2.4] Về kháng cáo yêu cầu bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần:
Xét thấy: Di chúc do ông M và bà L lập và được Phòng công chứng số 01 tỉnh H công chứng ngày 25/7/2007 là di chúc hợp pháp. Vì yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu của nguyên đơn không được chấp nhận, nên không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với bị đơn. Vì vậy, kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần 60.000.000 đồng là không có cơ sở chấp nhận.
Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Về án phí: Vì kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận, nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[Nguồn: Bản án số: 40/2021/DS-PT ngày 7/12/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 40/2021/DS-PT
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn