NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Diện tích 9.223m2 đất tọa lạc tại xã BM, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh có nguồn gốc của vợ chồng cụ Lý Thị H2 (mẹ đẻ bà Lê Thị H), cụ Huỳnh Văn T3 (cha dượng bà Lê Thị H) nhận chuyển nhượng của cụ Cao Đức D vào năm 1954 theo “Tờ bán đứt ruộng, đất” lập ngày 08/3/1954. Sau khi nhận chuyển nhượng đất của cụ D, cụ T3 và cụ H2 quản lý, sử dụng đến năm 1965 giao lại cho bà Lê Thị H quản lý, sử dụng. Ngày 31/12/1976, bà H viết “Giấy đăng ký ruộng” toàn bộ diện tích đất nêu trên tại Ủy ban nhân dân xã BM, có xác nhận của Ban chấp hành Nông hội xã. Ngày 06/11/1990, bà H đăng ký, kê khai và được Ủy ban nhân dân xã BM cấp “Giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng ruộng đất” đối với diện tích 9.223m2 đất (loại đất 2 Lúa và Mía) thuộc thửa số 8, tờ bản đồ số 5 tại xã BM, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Do cụ Lý Thị H2 và bà Lê Thị H tranh chấp diện tích đất nêu trên, nên ngày 23/4/1995, Ban nhân dân Ấp 8 có “Biên bản giải quyết ruộng đất”. Theo đó, bà H đồng ý giao lại 2.000m2 đất cho mẹ (cụ H2) quản lý, sử dụng. Bà H đã thực hiện thỏa thuận theo “Biên bản giải quyết ruộng đất” nêu trên và giao cho cụ H2 2.000m2 đất như đã thỏa thuận (đo đạc thực tế là 1.996,9m2 đất) tại thửa 6 17, tờ bản đồ số 2 (giáp với đường đất); cụ H2 đã nhận đất về ở cùng vợ chồng con trai là ông Huỳnh Văn U (U anh), bà Trần Kim K; đồng thời, cụ H2 chuyển hộ khẩu về cùng với hộ ông U (nội dung thay đổi hộ khẩu là: “về nhà ở của con, có người chăm sóc lúc tuổi già”). Ngày 03/5/1995, ông U có “Đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất” đối với 2.000m2 đất nêu trên, nội dung: “nguồn gốc được mẹ ủy quyền lại theo Biên bản giải quyết của Ấp 8 ngày 23/4/1995” và ông U có gửi kèm theo “Biên bản giải quyết ruộng đất” ngày 23/4/1995 (bản gốc); Đơn đã được Hội đồng xét cấp Giấy chứng nhận ruộng đất xã BM chứng nhận. Do vậy, có cơ sở xác định khi cụ H2 về ở cùng với vợ chồng ông U, bà K, cụ H2 đã giao 2.000m2 đất cùng “Biên bản giải quyết ruộng đất” ngày 23/4/1995 nêu trên cho ông U, bà K quản lý, sử dụng và đứng kê khai xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất. Ngày 08/8/1995, Ủy ban nhân dân huyện CC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 2.000m2 đất cho ông U.
[3] Thực tế, cùng năm 1995, bà H cũng đăng ký, kê khai xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bà H chỉ kê khai đối với 7.200m2 /9.223m2 đất mà không đăng ký, kê khai 2.000m2 đất và ngày 08/8/1995, Ủy ban nhân dân huyện CC đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H cùng ngày, tháng, năm với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông U). Có nghĩa là, bà H thừa nhận và xác nhận diện tích 2.000m2 này không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà.
[4] Tại “Biên bản hòa giải” ngày 13/5/2008, bà H trình bày: “Tôi có 9.200m2 đất…Năm 1996, tôi có đưa cho mẹ tôi (Lý Thị H2) 2.000m2 đất để canh tác, nhưng do ông U (con cụ H2) ở chung cụ H2 nên ông U đã canh tác 2.000m2 đất thế mẹ tôi…”. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 06/10/2017, ông Ngô Minh Đ (là người đại diện theo ủy quyền của bà H) trình bày: Năm 1995 bà H cho mẹ là cụ H2 2.000m2 đất nằm trong 9.200m2 đất để cụ H2 cho ông U con cụ H2 canh tác có thu nhập chăm lo cụ H2 lúc tuổi già. Tại Tòa án, bà H thừa nhận bà đồng ý giao lại cho cụ H2 2.000m2 đất có nguồn gốc của cụ H2 cho bà trước đây để ông U nuôi cụ H2. Như vậy, diện tích 2.000m2 đất tranh chấp không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà H, mà phần đất này thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cụ H2, nên cụ H2 có quyền định đoạt cho ông U (cụ H2 giao 2.000m2 đất cùng “Biên bản giải quyết ruộng đất” ngày 23/4/1995 nêu trên cho ông U quản lý, sử dụng và đứng kê khai xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất). Việc Ủy ban nhân dân huyện CC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông U là đúng đối tượng.
[5] Sau khi ông U chết (năm 2003), ngày 11/12/2003 bà K (vợ ông U) lập thủ tục chuyển quyền thừa kế phần đất của ông U và được Ủy ban nhân dân huyện CC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2004. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H, bà K nêu trên đều bị Ủy ban nhân dân huyện CC ra Quyết định thu hồi, lý do: cấp sai vị trí thửa đất (không phải cấp sai đối 7 tượng) và sẽ điều chỉnh lại cho phù hợp với thực tế sử dụng của mỗi bên. Do đó, việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà K không ảnh hưởng đến hồ sơ xin cấp đất ban đầu của ông U
[6] Cùng thời điểm sau khi ông U chết, cụ H2 ký tại “Đơn xin đăng ký ruộng đất” của bà H có nội dung đồng ý trả lại cho bà H 2.000m2 đất để bà H đăng ký, sử dụng. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, sau khi cụ H2 nhận 2.000m2 đất do bà H trả lại, cụ H2 đã giao toàn bộ diện tích đất này cho vợ chồng ông U canh tác và chăm sóc cụ, đồng thời cụ H2 còn giao “Biên bản giải quyết ruộng đất” giữa cụ H2 với bà H ngày 23/4/1995 cho ông U để ông U làm thủ tục kê khai xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó ông U đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận việc cụ H2 giao lại cho bà H diện tích đất cụ H2 đã cho vợ chồng ông U, bà K. Hiện nay cụ H2 đã chết (cụ H2 chết năm 2008). Quyết định giám đốc thẩm giao sơ thẩm xét xử lại để giám định dấu vân tay của cụ H2 là không cần thiết.
[7] Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã có văn bản thu thập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông U; đã lấy lời khai của Ủy ban nhân dân xã liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông U và việc Ủy ban nhân dân huyện CC căn cứ đề nghị của Ủy ban nhân dân xã MB cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H, ông U. Do vậy, Quyết định giám đốc thẩm hủy Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại, thu thập ý kiến của cơ quan cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông U là không đúng.
[8] Bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất, không khởi kiện yêu cầu chia thừa kế; bà K không yêu cầu chia thừa kế. Thực tế, Tòa án cấp phúc thẩm xác định đất tranh chấp là của ông U và chỉ công nhận đất cho những người thừa kế của ông U nên không đưa những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ H2 tham gia tố tụng là đúng. Quyết định giám đốc thẩm cho rằng cần phải đưa những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ H2 tham gia tố tụng là không đúng.
[9] Quyết định số 44262/QĐ-UBND và Quyết định số 44256/QĐ-UBND cùng ngày 24/9/2009 của Ủy ban nhân dân huyện CC, Biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân xã BM chỉ là chứng cứ xác định bà H đã đồng ý trả lại đất cho cụ H2. Theo các “Văn bản xác nhận” ngày 02/10/2017 của bà Huỳnh Thị Thạch K2, ông Huỳnh Công M, ông Huỳnh Văn U (U em) là những người con của cụ H2 đều khẳng định các ông, bà không liên quan đến vụ án trên và cam kết không khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến vụ án này. Do vậy, Quyết định giám đốc thẩm hủy Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, đưa bà Huỳnh Thị Thạch K2 tham gia tố tụng để giải quyết lại vụ án là không cần thiết
[10] Như đã nêu ở trên, nguồn gốc toàn bộ diện tích 9.223m2 đất là của cụ T3, cụ H2 (là bố, mẹ đẻ ông U), nhưng bà H (là con của cụ H2 và cụ Lê Văn G – bố đẻ bà H) được quản lý, sử dụng 7.200m2 đất; còn ông U chỉ được quản lý, sử dụng 1.996,9m2 đất. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm xác định diện tích đất tranh chấp là di sản của ông U là có căn cứ và hợp tình, hợp lý. Quyết định giám đốc thẩm quyết định hủy Bản án dân sự phúc thẩm, Bản án dân sự sơ thẩm, giao xét xử sơ thẩm lại là không có căn cứ.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 10/2023/DS-GĐT ngày 06/4/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số: 10/2023/DS-GĐT
———–
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn