NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 15/11/2013, ông Nguyễn Thế B, bà Lê Thị Đ (bên thế chấp), Công ty Cổ phần DPĐT (bên được cấp tín dụng) và Ngân hàng TMCPQĐ – Chi nhánh BSG (bên nhận thế chấp) ký kết Hợp đồng thế chấp tài sản số 2174.13.204.318851.BD và số 2175.13.204.318851.BD với nội dung: Ông B, bà Đ thế chấp tài sản là quyền sử dụng diện tích 34.018,5m2 đất thuộc thửa số 138, tờ bản đồ số 21 và quyền sử dụng diện tích 4.923,9m2 đất thuộc thửa 18, tờ bản đồ số 28 cùng tọa lạc tại ấp PT, xã TH, huyện TT, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Công ty ĐT theo các Hợp đồng hạn mức số 182.13.204.318851.TD.DN, số 157.13.204.318851.BL.DN cùng ngày 27/6/2013, số 148.12.204.318851.TD, số 815.12.204.318851.BL cùng ngày 23/4/2012 với điều kiện tổng dư nợ tối đa (dư nợ gốc) không vượt quá số tiền 2.325.950.000 đồng. Trong đó, Hợp đồng thế chấp số 2174.13.204.318851.BD bảo đảm cho số tiền vay (nợ gốc) không vượt quá 2.031.890.000 đồng và Hợp đồng thế chấp số 2175.13.204.318851.BD bảo đảm cho số tiền vay (nợ gốc) không vượt quá 294.060.000 đồng. Ngày 28/6/2014 và 22/8/2014, Ngân hàng QĐ đã giải ngân cho Công ty ĐT vay số tiền 2.300.000.000 đồng theo Hợp đồng hạn mức số 182.13.204.318851.TD.DN ngày 27/6/2013, thời hạn vay là 04 tháng kể từ ngày giải ngân. Tính đến ngày 01/9/2015, dư nợ của Công ty ĐT tại Ngân hàng QĐ là 2.300.000.000 đồng nợ gốc và 336.851.719 đồng nợ lãi.Quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, Công ty ĐT không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, nên Ngân hàng QĐ căn cứ Điều 4 của hai Hợp đồng thế chấp nêu trên để xử lý tài sản bảo đảm bằng phương thức bán đấu giá để thu hồi nợ.
[2] Xét Hợp đồng bán đấu giá tài sản số 03/HĐ-BĐG ngày 20/01/2016, Phụ lục Hợp đồng ngày 09/3/2016 giữa Chi nhánh Công ty QLN và KT tài sản Ngân hàng TMCP QĐ và Trung tâm DVĐGTS tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá số 17/HĐ.MB ngày 15/4/2016 giữa Trung tâm Dịch vụ đấu giá tài sản tỉnh BRVT và ông Phạm Tiến A thấy rằng: Theo thỏa thuận tại các Hợp đồng thế chấp tài sản thì ông B, bà Đ chỉ là người thế chấp tài sản để bảo lãnh cho các nghĩa vụ của Công ty ĐT phát sinh với Ngân hàng. Điều 361 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”. Điều 369 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:“Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”. Do đó, trong trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ thì Ngân hàng QĐ phải thông báo cho ông B, bà Đ về việc Công ty ĐT còn nợ Ngân hàng QĐ bao nhiêu tiền gốc, tiền lãi và ấn định thời gian cho ông B, bà Đ trả nợ thay cho Công ty ĐT; trong trường hợp ông B, bà Đ không trả được nợ theo thời gian ấn định của Ngân hàng QĐ thì Ngân hàng QĐ mới được yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất của ông B, bà Đ theo quy định tại Điều 369 Bộ luật dân sự năm 2005 về xử lý tài sản của bên bảo lãnh.
[3] Về việc thông báo bán đấu giá tài sản: Ngày 09/9/2015, Công ty QLN có Thông báo số 990/TB-MBMC-HCM đề nghị ông B, bà Đ trong thời hạn 10 ngày phải bàn giao tài sản nêu trên để xử lý bằng hình thức bán đấu giá; trường hợp ông B, bà Đ không tự nguyện bàn giao tài sản theo đúng thời gian trên, Công ty QLN sẽ đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phối hợp xử lý, thu giữ tài sản để thu hồi khoản nợ. Ngày 15/10/2015, Công ty QLN có Thông báo số 1250/TB-MBMC-HCM yêu cầu ông B, bà Đ tự nguyện bàn giao tài sản vào lúc 09 giờ ngày 05/11/2015; ngày 26/02/2016, Công ty QLN có Thông báo số 232/TB-MBMC-HCM cho ông B, bà Đ về việc Công ty QLN sẽ tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm vào 09 giờ ngày 04/4/2016. Ngày 04/4/2016, Công ty QLN đã lập Biên bản thu giữ 02 tài sản bảo đảm nêu trên (có xác nhận của chính quyền địa phương). Công ty QLN cho rằng đã gửi các Thông báo về việc bán đấu giá tài sản bảo đảm cho ông B, bà Đ theo địa chỉ ghi trong Hợp đồng thế chấp (số 133/28C NĐK, phường MH, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh); còn ông B, bà Đ xác định Công ty QLN không thông báo cho ông bà về việc bán đấu giá tài sản bảo đảm. Căn cứ vào các báo phát hoàn ngày 20/10/2015, ngày 15/3/2016, ngày 15/9/2016, Bưu điện xác nhận lý do không gửi được cho ông B, bà Đ vì địa chỉ đóng cửa thường xuyên; còn các Phiếu báo phát ngày 29/01/2016, ngày 02/3/2016, Bưu điện xác nhận lý do không gửi được cho ông B, bà Đ là không tìm thấy địa chỉ, không liên lạc được qua điện thoại. Do đó, chưa có căn cứ xác định ông B, bà Đ đã nhận được các Thông báo về việc bán đấu giá tài sản của Công ty QLN, của TT ĐG TStheo quy định tại khoản 2 Điều 457 Bộ luật dân sự năm 2005.Cho nên hoàn toàn không có sự thỏa thuận giữa ông B, bà Đ với Công ty QLN về việc giao tài sản cho Công ty QLN bán đấu giá tài sản để trả nợ. Trong trường hợp này nếu không có sự thỏa thuận thì Công ty thu hồi nợ phải khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông B, bà Đ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Cho nên việc Công ty QLN ký hợp đồng với TT ĐG TS đưa tài sản ra đấu giá là không đúng.
[4] Về việc xác định giá tài sản để đưa ra giá khởi điểm bán đấu giá: Theo điểm b khoản 4.3 Điều 4 của Hợp đồng thế chấp số 2174.13.204.318851.BD, số 2175.13.204.318851.BD ngày 15/11/2013: “Bán tài sản với giá khởi điểm do MB xác định căn cứ vào Biên bản định giá, Biên bản định giá lại tài sản lập tại thời điểm gần nhất hoặc theo giá các cơ quan, tổ chức có chức năng định giá tài sản”. Tuy nhiên, khi ký Hợp đồng bán đấu giá tài sản với TT ĐG TS, Ngân hàng QĐ đã tự xác định giá khởi điểm của 02 tài sản bảo đảm là 3.569.000.000 đồng, trong khi Ngân hàng QĐ định giá tài sản bảo đảm và ghi nhận trong Hợp đồng thế chấp làm căn cứ cấp tín dụng là 4.651.900.000 đồng và theo Biên bản định giá ngày 17/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện TT thì tổng giá trị 02 thửa đất tại thời điểm định giá là 8.296.513.000 đồng. Trường hợp này, khi xử lý tài sản bảo đảm, lẽ ra Ngân hàng QĐ phải thỏa thuận với bên có tài sản bảo đảm là ông B, bà Đ về giá tài sản, hoặc nếu không có thỏa thuận thì phải định giá tài sản thông qua tổ chức có chức năng định giá tài sản. Ngân hàng QĐ tự xác định giá khởi điểm của hai tài sản bảo đảm để đưa ra bán đấu giá là không đúng điểm b khoản 4.3 Điều 4 của các Hợp đồng thế chấp nêu trên và quy định tại khoản 2 Điều 457 Bộ luật dân sự năm 2005.
[5] Tòa án cấp sơ thẩm công nhận Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá số 17/HĐ.MB ngày 15/4/2016 giữa Trung tâm DVĐGTS tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với ông Phạm Tiến A là không có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm hủy Hợp đồng bán đấu giá tài sản số 03/HĐ-BĐG ngày 20/01/2016 và Phụ lục hợp đồng ngày 09/3/2016 giữa Chi nhánh Công ty TNHH QLN và KT tài sản Ngân hàng Thương mại cổ phần QĐ với Trung tâm DVĐGTS tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và hủy Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá số 17/HĐ.MB ngày 15/4/2016 giữa Trung tâm DVĐGTS tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với ông Phạm Tiến A là có căn cứ. Tuy nhiên, theo Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 27/12/2018, ông Phạm Tiến A vắng mặt không có người đại diện tham gia phiên tòa,Bản án phúc thẩm lại lập luận cho rằng tại phiên tòa phúc thẩm,Hội đồng xét xử đã giải thích cho các đương sự hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng các đương sự không ai yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, từ đó không giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là không đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Trong trường hợp này, khi giải quyết lại vụ án,Tòa án phải giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu,trừ trường hợp đương sự không yêu cầu. Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy Bản án dân sự phúc thẩm, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm là không có căn cứ.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 32/2020/DS-GĐT ngày 13/7/2020 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số: 32/2020/DS-GĐT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn