NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về đối tượng khởi kiện: Quyết định số 119/BHXH-CĐCS ngày 29/5/1997 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang là văn bản hành chính, có nội dung thu hồi sổ hưu số 1089617 của bà T; buộc bà T phải hoàn trả toàn bộ số tiền đã lĩnh từ khi nghỉ hưu, tổng cộng là 11.401.411 đồng. Văn bản số 600/BHXH-KT ngày 04/10/2012 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà giang có nội dung trả lời khiếu nại của bà T về việc bà không được giải quyết hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng (chế độ hưu trí) là do bà đã được giải quyết thôi việc hưởng trợ cấp một lần theo quy định tại Quyết định số 176/HĐBT ngày 09/10/1989 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính thì Quyết định số 119/BHXH-CĐCS ngày 29/5/1997 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang và Văn bản số 600/BHXH-KT ngày 04/10/2012 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét Văn bản số 600/BHXH-KT nêu trên mà không xem xét đối với Quyết định số 119/BHXH-CĐCS nêu trên là bỏ sót đối tượng và yêu cầu khởi kiện của bà T. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xác định Quyết định 119/BHXH-CĐCS ngày 29/5/1997 là đối tượng khởi kiện để xem xét mà không xác định Văn bản số 600/BHXH-KT là đối tượng khởi kiện là sai lầm.
[2] Về thời hiệu khởi kiện: Thời hiệu khởi kiện đối với Quyết định số 119/BHXH-CĐCS ngày 29/5/1997 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang và Văn bản số 600/BHXH-KT ngày 04/10/2012 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang được tính từ ngày bà T nhận được Quyết định số 119/BHXH-CĐCS ngày 29/5/1997 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang và Văn bản số 600/BHXH-KT ngày 04/10/2012 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang, vì bà T là đối tượng bị tác động trực tiếp bởi hai văn bản này.
Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang cho rằng đã gửi Quyết định số 119/BHXH-CĐCS ngày 29/5/1997 cho bà T qua bưu điện, nhưng không có tài liệu, chứng cứ về việc giao nhận quyết định. Ngày 29/5/2019, Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang ban hành Văn bản số 606/BHXH-TTKT về việc trả lời đơn và mới cung cấp Quyết định số 119/BHXH-CĐCS cho bà T. Tại các Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 07/6/2019 và ngày 30/7/2019, bà T trình bày trước đây Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang không giao Quyết định số 119/BHXH-CĐCS cho bà, bà mới nhận được Quyết định số 119/BHXH-CĐCS, nhưng khi thì khai là nhận ngày 02/6/2019, khi thì nhận ngày 30/7/2019 do Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang cung cấp. Như vậy, có căn cứ để xác định chỉ đến tháng 6/2019 bà T mới nhận được Quyết định số 119/BHXH-CĐCS nêu trên. Do đó, việc bà T khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 119/BHXH-CĐCS ngày 29/5/1997 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang là còn trong thời hiệu khởi kiện.
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 16/01/2019 và Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 11/02/2019, bà T đều khai Tòa án nhân dân huyện Hoàng Su Phì cung cấp cho bà Văn bản số 600/BHXH-KT ngày 04/10/2012 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang, nhưng ngày nhận thì bà T khai khi là ngày 11/4/2018, khi là ngày 27/4/2018. Hồ sơ vụ án không có chứng cứ, tài liệu thể hiện việc Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang đã giao Văn bản số 600/BHXH-KT ngày 04/10/2012 cho bà T, nên chưa có cơ sở để xác định thời điểm bà T nhận được Văn bản số 600/BHXH-KT nêu trên. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cần thu thập chứng cứ, tài liệu có giá trị pháp lý để xác định thời điểm bà T nhận được Văn bản số 600/BHXH-KT ngày 04/10/2012 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang để xác định thời hiệu khởi kiện đối với Văn bản số 600/BHXH-KT nêu trên.
Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Văn bản số 600/BHXH-KT là “văn bản hành chính thông thường không phải là quyết định hành chính…, không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính…” nên không xem xét thời hiệu khởi kiện đối với Văn bản số 600/BHXH-KT và căn cứ vào Điều 143, Điều 144, Điều 165 Luật tố tụng hành chính đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng pháp luật.
Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét, nhận định về lý do đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm có căn cứ hay không là sai lầm. Do chỉ xác định Quyết định số 119/BHXH-CĐCS ngày 29/5/1997 là đối tượng khởi kiện, từ đó cho rằng ngày 05/5/2017, bà T đã biết việc bị cắt lương hưu theo Quyết định số 119/BHXH-CĐCS, nhưng ngày 16/01/2019, bà T mới khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 119/BHXH-CĐCS là hết thời hiệu khởi kiện là không đúng pháp luật như phân tích nêu trên.
[3] Về xác định tư cách người bị kiện trong vụ án: Quyết định số 119/BHXH-CĐCS ngày 29/5/1997 do Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang ban hành và theo thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Văn bản số 600/BHXH[1]KT ngày 04/10/2012 cũng do Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang ban hành. Bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hai văn bản này, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định người bị kiện là Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang là không đúng, mà phải xác định Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang là người bị kiện mới đúng.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 02/2021/HC-GĐT ngày 27/01/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số:02/2021/HC-GĐT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn