Feel free to go with the truth

Trang chủ / Nghiên cứu học tập / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy Phán quyết Trọng tài vì phải xem xét khoảng thời gian diễn ra Covid 19 không tính vào thời hiệu khởi kiện mới phù hợp quy định tại Điều 156 BLDS

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy Phán quyết Trọng tài vì phải xem xét khoảng thời gian diễn ra Covid 19 không tính vào thời hiệu khởi kiện mới phù hợp quy định tại Điều 156 BLDS

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi xem xét toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ vụ việc được thẩm tra tại phiên họp; nghe ý kiến tranh luận của các đương sự; nghe ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét đơn nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền: Đây là việc dân sự về yêu cầu kinh doanh thương mại liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp, nơi Hội đồng Trọng tài tuyên Phán quyết Trọng tài là Thành phố Hồ Chí Minh, do đó căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 31, điểm b khoản 1 Điều 37, điểm o khoản 2 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, và điểm g Khoản 2, Khoản 3 Điều 7 Luật Trọng tài thương mại, yêu cầu này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

[1.2] Về thời hiệu nộp đơn yêu cầu: Ngày 05/02/2024 là ngày công bố Phán quyết Trọng tài vụ kiện số A1 (sau đây gọi tắt là Phán quyết Trọng tài). Ngày 28/02/2024 Công ty S nộp đơn yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hủy Phán quyết Trọng tài là còn trong thời hạn theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật Trọng tài Thương mại.

[2]. Về nội dung: Xét lý do trong đơn yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài của người yêu cầu là Công ty S, căn cứ các tài liệu chứng cứ đính kèm tại đơn yêu cầu và lời trình bày của các bên tại phiên họp, Hội đồng xét đơn nhận thấy:

[2.1] Đối với lý do: Về thời hiệu Hội đồng Trọng tài đã căn cứ vào thỏa thuận các bên để áp dụng pháp luật Việt Nam giải quyết, tuy nhiên chưa được áp dụng đầy đủ về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện theo quy định Điều 156 Bộ luật Dân sự nên Phán quyết vi phạm quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại: “đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam“.

Xét tại Mục 45 của Phán quyết có nội dung: nguyên đơn và bị đơn thống nhất áp dụng thời điểm bắt đầu lại thời hiệu liên quan đến vụ tranh chấp là ngày 08/7/2021. Thời hạn của thời hiệu khởi kiện các tranh chấp thương mại là 02 năm nên ngày cuối cùng của thời hạn để một bên trong vụ tranh chấp có thể khởi kiện yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ hay trách nhiệm với mình sẽ là cuối ngày 07/7/2023 (ngoại trừ các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện hoặc các khoảng thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được quy định tại các Điều 155, 156 tương ứng của Bộ luật Dân sự thì thời hiệu sẽ không được áp dụng hoặc được kéo dài tương ứng).

Tại thư đề nghị gia hạn thanh toán ngày 08/7/2021 của Công ty Đ có nội dung: “Tôi vẫn cam kết thanh toán số tiền cho quý công ty, nhưng mong quý công ty hiểu và thông cảm rằng tôi sẽ thu xếp thanh toán cho quý công ty khi dịch bệnh qua đi và kinh tế công ty chúng tôi phục hồi”.

Tại phiên họp của Tòa các bên đương sự đều xác định ngày 08/7/2021 là ngày bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện theo quy định Điều 157 Bộ luật Dân sự. Đại diện Công ty Đ xác nhận tính đến thời điểm mở phiên họp của Tòa án thì Công ty Đ chưa phục hồi kinh tế. Hội đồng xét đơn nhận thấy T1 đề nghị xác định “tôi sẽ thu xếp thanh toán cho quý công ty khi dịch bệnh qua đi và kinh tế công ty chúng tôi phục hồi” là Công ty Đ thừa nhận nghĩa vụ thanh toán nhưng không xác định thời gian cụ thể, vì vậy không có thời hạn cụ thể để tính thời hiệu. Công ty S muốn khởi kiện thì phải thông báo cho Công ty Đ bằng văn bản và cho họ khoảng thời gian hợp lý để thu xếp trả nợ, hết thời gian hợp lý mới xác định thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán.

[2.2] Đối với lý do cấn trừ khoảng thời gian không tính vào thời hiệu:

Mục 54 đến 56 của Phán quyết có nêu ý kiến của nguyên đơn đối với việc người quản lý của bị đơn là ông Trần Công A phải nằm viện vì bị nhiễm vi rút Sars -CoV-2 và người đại diện theo pháp luật của bị đơn có văn bản nêu khó khăn, xin gia hạn thanh toán. Những lý do này nguyên đơn đề nghị phải được xem “sự kiện bất khả kháng” hay “trở ngại khách quan”. Hội đồng Trọng tài có phân tích về sự kiện bất khả kháng và căn cứ khoản 6.2 Điều VI của các Hợp đồng mà các bên đã ký để xác định dựa trên tài liệu đệ trình, không giấy chứng nhận nào đã được ban hành để làm bằng chứng chứng minh sự kiện bất khả kháng đã xảy ra.

Mục 56 (ii) của Phán quyết có nội dung: trong suốt thời gian đại dịch Covid-19 xảy ra tại Việt Nam (2020 đến cuối năm 2022), việc thanh toán trong nước và ra nước ngoài từ Việt Nam không bị đình trệ …. Vì vậy nghĩa vụ thanh toán trong giai đoạn này không chịu ảnh hưởng của sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan.

Hội đồng Trọng tài phân tích khoảng thời gian đại dịch Covid-19 xảy ra tại Việt Nam (2020 đến cuối năm 2022), việc thanh toán trong nước và ra nước ngoài từ Việt Nam không bị đình trệ nhưng không xem xét đến yếu tố khoảng thời gian bắt đầu từ 0 giờ ngày 09/đến hết ngày 30/9/2021 là thời gian toàn Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 16/CT-TTg và các văn bản của Ủy ban nhân dân Thành phố H như: Công văn số 2279 UBND/TP ngày 8/7/2021 áp dụng biện pháp phòng chống dịch Covid-19 theo Chỉ thị số 16/CT- TTg của Thủ tướng chính phủ cách ly toàn xã hội 15 ngày từ 00 giờ ngày 09/7/2021; Công văn số 2789 UBND/TP ngày 20/8/2021 tăng cường 1 số biện pháp thực hiện công tác phòng chống dịch Covid-19 thực hiện triệt để giãn cách xã hội, thực hiện nghiêm nhà cách ly nhà, tổ dân phố C, phường, thị trấn…; Công văn số 2796 UBND/TP ngày 21/8/2021 tăng cường kiểm soát các nhóm đối tượng được lưu thông trong thời gian giãn cách xã hội từ 00 giờ ngày 23/8/2021 đến 06/9/2021 bắt buộc phải có giấy đi đường và dấu hiệu nhận diện theo quy định; Công văn số 2800 UBND/TP ngày 21/8/2021 về việc điều chỉnh tăng cường kiểm soát các nhóm đối tượng được lưu thông trong thời gian giãn cách xã hội; Công văn số 3086 UBND/TP ngày 16/9/2021 thí điểm từ ngày 16/9/2021 đến 30/9/2021 đi làm việc theo phương án 3 tại chỗ, 1 cung đường 2 điểm đến, bố trí tối đa 1/3 cán bộ công chức, kiểm soát di chuyển, công an cấp giấy đi đường hoặc mã QR cho cán bộ công chức và người lao động. Việc thanh toán tiền hàng còn thiếu là nghĩa vụ của Công ty Đ nhưng việc đi lại để khởi kiện tại VIAC là quyền của Công ty S khi lợi ích bị xâm phạm nhưng khoảng thời gian từ 00 giờ ngày 09/đến hết ngày 30/9/2021 là thời gian toàn Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện giãn cách, do đó thời gian này phải được tính là trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện. Vì vậy cần phải xem xét khoảng thời gian này không tính vào thời hiệu khởi kiện mới phù hợp quy định tại Điều 156 Bộ luật Dân sự.

Mục 59 của Phán quyết, Hội đồng Trọng tài xác định đơn khởi kiện của nguyên đơn hết thời hiệu khởi kiện nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa chính xác, không đúng những nguyên tắc trong pháp luật khi xác định về thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Từ những nhận định trên Hội đồng xét đơn chấp nhận yêu cầu của Công ty S hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 143/23 HCM ngày 05/02/2024 của V1.

[3] Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên họp có ý kiến: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của Công ty S về việc hủy Phán quyết Trọng tài. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét đơn nên chấp nhận.

[4] Căn cứ Khoản 3 Điều 39 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành thì trường hợp của Công ty S phải chịu lệ phí Tòa án, tuy nhiên trong phần danh mục lệ phí Tòa án thì lại không quy định rõ đối với loại việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài lệ phí là bao nhiêu. Vì vậy, Công ty S không phải chịu lệ phí.

[Nguồn: Quyết định số 97/2024/QĐ-PQTT ngày 30/5/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số:  97/2024/QĐ-PQTT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan