NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Bị cáo Trần Phước Nh khiếu nại cho rằng bị cáo không có hành vi “Cướp tài sản” và quá trình điều tra bị cáo khai bị bức cung, dùng nhục hình. Tuy nhiên, bị cáo Nh không có đơn khiếu nại trong quá trình điều tra. Tại những lời khai ban đầu của bị cáo, bị cáo Nh đều thừa nhận hành vi cướp tài sản của mình. Các biên bản thể hiện bị cáo được lấy lời khai trong trạng thái tỉnh táo, minh mẫn, việc khai báo hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại là anh Triệu Quốc Đ và những người làm chứng là anh Nguyễn Hoàng Tọng N và bà Nguyễn Thị H, thể hiện bị cáo đã có hành vi dùng dao rạch áo anh Đ, giật đồng hồ và vòng tay đá trên tay anh Đ. Biên bản mở camera kiểm tra cũng thể hiện nội dung: Bị cáo Nh giật đồng hồ và vòng đeo tay của bị hại cho vào túi quần sau; Khi Công an phường đến, bị cáo vứt đồng hồ và vòng tay xuống đường. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan sai.
[2] Trong vụ án này, chiếc xe mô tô biển số 60C1-046.61 nhãn hiệu SYM Attila, số khung 016143, số máy 016143 bị cáo Nhật sử dụng, là phương tiện dùng vào việc phạm tội. Chiếc xe mô tô này do chị Phan Ngọc Minh C (vợ bị cáo Nhật) mua vào ngày 29/9/2019 tại Cửa hàng bán xe máy Như Ý với giá 10.500.000 đồng; vẫn đứng tên chủ sử dụng cũ là chị Trần Thị Hương Tr và chưa sang tên cho chị C. Theo quy định tại Điều 33 của Luật Hôn nhân và gia đình thì chiếc xe này là tài sản chung của bị cáo Nh và chị C.
Tòa án cấp phúc thẩm đã tịch thu giá trị 1/2 chiếc xe mô tô biển số 60C1-46.61 để sung công quỹ nhà nước, trả lại giá trị 1/2 chiếc xe mô tô biển số 60C1-046.61 cho chị C. Tuy nhiên, theo nội dung văn bản số 259/CCTHADS ngày 24/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thể hiện, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa không thể thực hiện được việc trả lại ½ giá trị tài sản vật chứng theo như quyết định tại bản án hình sự phúc thẩm do các quy định pháp luật liên quan đến việc tịch thu, sung công quỹ nhà nước.
[3] Trong khi đó, việc phạm tội của bị cáo vào ngày 07/11/2019 của Trần Phước Nh mang tính chất bộc phát, không phải lên kế hoạch chuẩn bị từ trước. Chiếc xe mô tô bị thu giữ là phương tiện phục vụ sinh hoạt thiết yếu, lao động hàng ngày đối với chị Phan Ngọc Minh C và có giá trị không lớn. Do vậy, việc Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa trả lại chiếc xe mô tô cho chị Phan Thị Minh C là phù hợp với chính sách nhân đạo của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự trong việc bảo vệ quyền về tài sản của cá nhân.
[4] Do vậy, cần chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, hủy một phần Bản án hình sự phúc thẩm số 292/2020/HS-PT ngày 12/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về xử lý vật chứng là xe mô tô biển số 60C1-046.61, nhãn hiệu SYM, loại Attila, màu vàng, số máy 016143, số khung 016143 và giữ nguyên phần Bản án hình sự sơ thẩm số 208/2020/HS-ST ngày 06/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa về việc xử lý vật chứng nêu trên.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 17/2022/HS-GĐT Ngày 14/02/2022 của ỦY BAN THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn QĐ GĐT: 17/2022/HS-GĐT