NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét thấy quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về thẩm quyền giải quyết vụ án cũng như trong việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ; nhiều chứng cứ chưa được chứng minh làm rõ dẫn đến việc ra quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án cụ thể như sau:
[1] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Tại khoản 4, Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân s trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về th m quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh.”. Tại khoản 4, Điều 32 Luật Tố tụng hành chính quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.”.
Trong vụ án, các nguyên đơn tranh chấp với bị đơn quyền sử dụng đất và có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cụ Võ Văn S1 và bà Võ Thị S đứng tên. Căn cứ vào quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính như đã viện dẫn trên thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án nhân dân thành phố H giải quyết là không đúng thẩm quyền, vi phạm nghiêm trọng về thẩm quyền giải quyết vụ án.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Hồ sơ vụ án thể hiện: Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22/3/2000 do Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh T đã cấp cho Hộ cụ Võ Văn S1 được quyền sử dụng diện tích 6975m2 (loại đất lúa, ở và Ao hồ) gồm: thửa đất số 692 diện tích 2850m2 , thửa 464 diện tích 2991m2 , thửa 152 diện tích 567m2 , thửa 302 diện tích 567m2 , thuộc các tờ bản đồ số 6, 7 và 21; đất tọa lạc tại ấp L, xã AB, huyện H, tỉnh T.
Ngày 28/7/2006 tại Uỷ ban nhân dân xã AB, cụ S1 làm thủ tục tặng cho (qua hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất) con là bà Võ Thị S diện tích 279m2 thuộc thửa 152 và thửa 302 diện tích 143m2 .
Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 160116, ngày 31/8/2006 do Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh T đã cấp cho bà Võ Thị S được quyền sử dụng thửa đất số 537, tờ bản đồ số 21, diện tích 143m2 (loại đất ở tại nông thôn).
Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 160418, ngày 31/8/2006 do Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh T đã cấp cho bà Võ Thị S được quyền sử dụng thửa đất số 536, tờ bản đồ số 21, diện tích 136m2 (loại đất nuôi trồng thủy sản).
Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 160117, ngày 31/8/2006 do Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh T đã cấp cho cụ Võ Văn S1 được quyền sử dụng thửa đất số 539, tờ bản đồ số 21, diện tích 421m2 (đất ở tại nông thôn);
Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 160417, ngày 31/8/2006 do Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh T đã cấp cho cụ Võ Văn S1 được quyền sử dụng thửa đất số 538, tờ bản đồ số 21, diện tích 389m2 (loại đất nuôi trồng thủy sản)
[2.2] Về việc quản lý, đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất tranh chấp:
Quá trình giải quyết vụ án bên nguyên đơn trình bày: khoảng năm 1986- 1987, gia đình cụ Võ Văn S1 từ Campuchia về Việt Nam sinh sống, tự ý bao chiếm đất của cha mẹ nguyên đơn để ở. Tuy nhiên, bên bị đơn lại trình bày Nhà nước cấp đất cho gia đình từ năm 1983 và gia đình đã quản lý đến nay.
Tại Văn bản số 269/TA-DS ngày 07/7/2021 của Tòa án nhân dân thành phố H có hỏi Uỷ ban nhân dân thành phố H nhiều nội dung, trong đó có nội dung yêu cầu cung cấp thông tin về người đầu tiên đăng ký đất tranh chấp vào sổ mục kê hay sổ địa chính; tuy nhiên Công văn số 2850/UBND-HC ngày 07/10/2021 của Uỷ ban nhân dân thành phố H trả lời các nội dung khác, không trả lời nội dung về việc người đăng ký sổ mục kê hay sổ địa chính mà không nêu rõ lý do.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ làm rõ: từ 1975 đến thời điểm 1983 (thời điểm bên gia đình bị đơn trình bày nhận đất theo chủ trương của Nhà nước) có ai là người quản lý đất tranh chấp hay chỉ là đất trống; từ thời điểm 1983 đến trước thời điểm năm 2000 (cụ S1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) thì ai là người kê khai, đăng ký, thực hiện nghĩa vụ thuế đất đối với Nhà nước; chưa yêu cầu bên bị đơn nêu rõ lý do gì cụ S1 được Nhà nước cấp đất từ năm 1983, qua nhiều thời kỳ Luật Đất đai 1987, 1993 nhưng không đăng ký, đến năm 2000 mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; chưa thu thập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ S1 vào năm 2000 để làm rõ cơ sở pháp lý về việc cấp quyền sử dụng đất cho cụ S1 là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.
[2.3] Về chủ trương của Nhà nước cấp đất cho các gia đình chính sách năm 1983:
Lời khai của ông Trần Văn K2, nguyên Tập đoàn trưởng Tập đoàn 1, thuộc ấp L, xã AB trình bày: Năm 1983, Uỷ ban nhân dân huyện H có chủ trương (không có giấy tờ, chỉ chỉ đạo miệng) cho Uỷ ban nhân dân xã cấp đất cho các hộ dân ở Campuchia về Việt Nam sinh sống; Uỷ ban nhân dân xã đã cấp cho rất nhiều hộ, trong đó có hộ của hộ cụ S1. Lời trình bày của cụ Bùi Văn N7 cũng xác nhận chính quyền địa phương có chủ trương lấy đất chia lại cho những người không có đất, trong đó gia đình cụ N7 cũng có đất chính quyền địa phương lấy chia lại.
Tại Văn bản số 1469/UBND-HC ngày 18/6/2021 của Uỷ ban nhân dân thành phố H trả lời Tòa án nhân dân thành phố H: “Nhà nước có chủ trương cấp đất thổ cư cho nhân dân”.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa yêu cầu Uỷ ban nhân dân thành phố H cung cấp về việc “Nhà nước có chủ trương cấp đất thổ cư cho nhân dân” có văn bản, giấy tờ hay không? Cấp thẩm quyền nào của Nhà nước có chủ trương cấp đất thổ cư cho nhân dân? Chưa làm rõ thời điểm năm 1983, Uỷ ban nhân dân xã cấp đất cho các gia đình thuộc diện chính sách có lưu lại các văn bản, giấy tờ liên quan hay không (bản vẽ hay sơ đồ cấp đất cho từng hộ; biên bản họp của Uỷ ban nhân dân xã…) là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bên nguyên đơn trong khi nhiều chứng cứ chưa được chứng minh làm rõ là chưa có căn cứ vững chắc; chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, hủy cả hai Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh T giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm theo thẩm quyền.
[Nguồn: Quyết định GĐT số: 144/2023/DS-GĐT ngày 07/8/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem file đính kèm toàn văn QĐ số: 144/2023/DS-GĐT
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn