NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Đối với nhà đất tại X C các đương sự trong vụ án đều thừa nhận quyền sử dụng đất và căn nhà phía trước do vợ chồng cụ S tạo lập, căn nhà phía sau do vợ chồng ông Phan Duy Tr (con trai vợ chồng cụ S) bỏ tiền xây dựng vào ngày 25/4/2014 UBND thị xã A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số sêri CH01080 cho cụ Phan Duy B và cụ Lê Thị S, do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chia tài sản chung của vợ chồng cụ S, chia thừa kế phần di sản của cụ B theo pháp luật là đúng.
[2] Cụ S trình bà nguồn gốc diện tích đất hiện nay có địa chỉ số L đường T do Chính quyền bán cho vợ chồng Cụ năm 1992, thời điểm 2 Cụ mua đất thì ông Phan Duy Tr ở chung với 2 Cụ tại X C và chưa tách hộ hẩu riêng, ông Phan Duy S1 thì ở Quy Nhơn, còn bà han Thị Lệ B bỏ chồng về ở với 2 Cụ nên 2 Cụ nhờ bà B đứng tên để UBND huyện A ghi tên bà B vào Quyết định giao đất; trong khi đó, bà B cho rằng trước năm 1990 bà B ở cùng cha mẹ tại X C, nhưng do mâu thuẫn nên năm 1990 bà B tách hộ hẩu và làm đơn xin, được Chính qu ền giao 125m2 đất để làm nhà ở, bà B đ làm nhà ở và năm 2006 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng năm 2009 bị ép buộc ký Hợp đồng tặng cho cụ B nhà đất. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấ bà B cho rằng bị ép buộc ý Hợp đồng tặng cho, nhưng không nêu được căn cứ chứng minh, trong khi mẹ bà B là cụ S và các anh chị em của bà B không thừa nhận. Xét trình bà của cụ S là phù hợp với thực tế ngày 13/01/1992 Ủy ban nhân dân huyện A ban hành Quyết định số 40 QĐ-UB ghi tên giao 125m2 đất (là một phần của thửa đất số 703, tờ bản đồ số 03, xã N) cho bà B và ngày 11/12/2006 bà B được UBND huyện A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số vào sổ cấp GCN: H 02682/QSDĐ/I8) đối với 125m2 đất, thửa số 117, tờ bản đồ 01, nhưng ngày 09/6/2009 bà B ý Hợp đồng tặng thửa đất cho cụ B và ngày 14/7/2009 cụ B được UBND huyện A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số vào sổ cấp GCN: H 03237/QSDĐ/I8) công nhận có quyền sử dụng thửa số 117, tờ bản đồ 01, x A (bl 76, 132, 138, 133). Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên, cần xác định nguồn gốc 125m2 đất, thửa 117, tờ bản đồ số 01 do vợ chồng cụ S mua nhờ bà B đứng tên, chính vì vậy mà sau đó bà B đã ký Hợp đồng tặng cho thửa đất lại cho cụ B.
[3] Xét: (i). Khoản 1 Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định “Vợ chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản đựợc thừa kế riêng đựợc tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;…”; (ii). Theo dẫn chứng và phân tích tại mục [2] thì nguồn gốc thửa đất số 117 do vợ chồng cụ S mua và nhờ bà B đứng tên; tu nhiên, sau đó bà B tặng thửa đất lại cho cụ B và ngày 14/7/2009 cụ B được UBND huyện A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số vào sổ cấp GCN: H 03237 QSDĐ/I8) nhưng cụ S không phản đối và đến nat đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận uyền sử dụng đất (số vào sổ cấp GCN: H 03237/QSDĐ/I8), do đó cần xác định quyền sử dụng thửa số 117, tờ bản đồ 01, thôn Cẩm Vân, xã A, huyện A là tài sản riêng của cụ B. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm nhận định “Mặc dù nhà đất tại số L T bà B tặng cho riêng cụ B, nhưng cụ B và cụ S kết hôn từ những năm 1950 nên áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 “Vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” để xác định quyền sử dụng thửa đất số 117 là tài sản chung của vợ chồng cụ S, cụ B là áp dụng không đúng pháp luật vì theo nguyên tắc áp dụng pháp luật quy định tại hoản 1 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì hành vi (sự kiện) xảy ra ở thời điểm nào phải áp dụng văn bản pháp luật có hiệu lực ở thời điểm đó (trừ trường hợp văn bản pháp luật có quy định khác – quy định về một vấn đề được áp dụng sớm hoặc hồi tố). Như vậy , Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định quyền sử dụng thửa đất số 117 là tài sản chung của vợ chồng cụ S, cụ B là không đúng, dẫn đến việc chia thừa kế di sản của cụ B không đúng làm ảnh hưởng quyền lợi hợp pháp của những người hưởng thừa kế di sản của cụ B (trong đó có bà B) nên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 17/2021/KN-DS ngày 26/4 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm, để giải quyết sơ thẩm lại.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 42/2021/DS-GĐT Ngày 7/7/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định GĐT: Số 42/2021/DS-GĐT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn