NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Các nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 4417, quyển số 09/TPCC-SCC/HDGD ngày 03/11/2017 lập tại Văn phòng công chứng L ngày 03/11/2017 giữa bên chuyển nhượng là bà Phan Thị N, ông Hà Minh R với bên nhận chuyển nhượng là anh Hà Duy L, chị Đàm Thị Kim D vô hiệu do nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ của bà N, ông R đối với các nguyên đơn. Các nguyên đơn không có yêu cầu xem xét trách nhiệm của công chứng viên khi công chứng hợp đồng hay yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng bồi thường thiệt hại. Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm không đưa Văn phòng công chứng L vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phù hợp với nội dung hướng dẫn tại khoản 3 mục IV Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp một số vướng mắc trong xét xử. Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi không đưa Văn phòng công chứng L vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không chính xác.
[2]. Về việc giải quyết nội dung vụ án:
[2.1]. Theo Hợp đồng tín dụng số 0479/TN1/16NH ngày 18/8/2016, Phụ lục hợp đồng số 01-0479/TN1/16NH ngày 28/10/2016 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng 0479/TN1/16NH số 02 ngày 22/3/2017 thì vợ chồng bà N, ông R vay của Ngân hàng số tiền 3.500.000.000 đồng, tài sản thế chấp là các quyền sử dụng đất của vợ chồng ông R, bà N được ghi nhận trong tổng cộng 05 (năm) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong đó có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01311OSDD/450805 ngày 23/6/1998 đối với thửa số 1831 (diện tích thực tế 100,9m2) và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00056/127/2004/HD-CN ngày 02/3/2005 đối với thửa số 1926 (diện tích thực tế 99,2m2), sau gộp lại thành thửa số 445, tờ bản đồ số 34, diện tích 200,1m2, tọa lạc tại ấp CT, xã CG, huyện GD, tỉnh Tây Ninh.
[2.2]. Do không có khả năng trả nợ khoản vay của Ngân hàng nên vợ chồng ông R, bà N đồng ý chuyển nhượng cho vợ chồng anh Hà Duy L quyền sử dụng đất đang thế chấp tại Ngân hàng, theo phương thức anh L sẽ nộp tiền vào Ngân hàng để trả nợ thay ông R, bà N, sau khi được Ngân hàng giải chấp thì hai bên sẽ ra Văn phòng công chứng ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thực hiện thỏa thuận, ngày 02/11/2017, anh Hà Duy L đã nộp tiền trả nợ Ngân hàng thay cho bà N, ông R; Ngân hàng đã tiến hành giải chấp đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01311OSDD/450805 ngày 23/6/1998 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00056/127/2004/HD-CN ngày 02/3/2005, tương ứng tổng diện tích 200,1m2 đất thuộc thửa số 1831 và thửa số 1926 nêu trên cho ông R, bà N. Ngày 03/11/2017, ông R, bà N ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 200,1m2 đất cho vợ chồng anh L tại Văn phòng công chứng L. (Ngày 06/11/2017, bà N, ông R tiếp tục chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất còn lại là 29.580,9m2 cho ông Võ Văn H với giá 2.700.000.000 đồng). Ngày 14/11/2017, vợ chồng anh L được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, đến ngày 14/3/2018 thì được cấp đổi, số vào sổ CS03289.
[2.3]. Xét giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà N, ông R và vợ chồng anh L được thực hiện và đã hoàn thành trước khi phát sinh các vụ án về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa các nguyên đơn và bị đơn (được Tòa án nhân dân huyện GD ghi nhận tại các Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 16/2018/QĐST-DS ngày 26/3/2018, số 91/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018, số 92/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018, số 93/2018/QĐST- DS ngày 31/10/2018 và số 94/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018). Như vậy, tại thời điểm vợ chồng bà N chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh L thì quyền sử dụng đất không bị ai tranh chấp, tài sản này cũng không bị kê biên để đảm bảo thi hành án (bao gồm cả những Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã nêu trên); hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật. Sau khi nhận chuyển nhượng, vợ chồng anh L đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất.
Hơn nữa, ngoài tài sản là quyền sử dụng đất đã chuyển nhượng cho vợ chồng anh L, vợ chồng bà N, ông R còn chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất còn lại cho người khác. Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm cho rằng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở giữa bà N, ông R với vợ chồng anh L là hợp đồng giả tạo, nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ với các nguyên đơn là không có cơ sở.
[Nguồn: QĐ GĐT số 05/2022/DS-GĐT Ngày 06/01/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn QĐ GĐT: 05/2022/DS-GĐT