Feel free to go with the truth

Trang chủ / BIỂU MẪU VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án vì Tòa không tiến hành thủ tục thụ lý yêu cầu độc lập của người có quyền lợi liên quan và Quyết định sửa nội dung bản án đã tuyên

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án vì Tòa không tiến hành thủ tục thụ lý yêu cầu độc lập của người có quyền lợi liên quan và Quyết định sửa nội dung bản án đã tuyên

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Về tố tụng:

[1] Nguyên đơn (chị Nguyễn Thị Thiên Việt) khởi kiện trình bày nhà đất tại địa chỉ 13 Hồ Xuân Hương là tài sản chung của vợ chồng vì đứng tên chị Việt và anh Tuấn nên yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng cho mỗi người ½ giá trị nhà đất này nên đã nộp tạm ứng án phí cho yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng; trong khi đó, vợ chồng ông Đỗ Minh Hảo, bà Trần Thị Do (là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án) cho rằng Ông Bà bỏ tiền mua nhà đất nên yêu cầu Tòa án công nhận nhà đất là tài sản của Ông Bà, như vậy vợ chồng ông Hảo, bà Do có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp quyền sở hữu tài sản, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không hướng dẫn vợ chồng ông Hảo nộp tạm ứng án phí cho yêu cầu độc lập của mình là thiếu sót. Mặc dù, chưa yêu cầu vợ chồng ông Hảo nộp tạm ứng án phí, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại giải quyết công nhận nhà đất số 13 Hồ Xuân Hương là tài sản của vợ chồng ông Hảo, bà Do là vi phạm tố tụng, đồng thời tuyên giao cho anh Tuấn được quyền quản lý, sử dụng, định đoạt và được quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục sang tên nhà đất từ vợ chồng anh Tuấn, chị Việt sang tên mình anh Tuấn là không đúng pháp luật.

[2] Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện ra thiếu sót nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm nên lẽ ra, cần phải hủy Bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại yêu cầu vợ chồng ông Hảo nộp tạm ứng án phí cho yêu cầu độc lập của mình và xem xét giải quyết luôn yêu cầu độc lập của vợ chồng ông Hảo, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại sửa bản án sơ thẩm, tuyên tạm giao nhà đất cho anh Tuấn quản lý, sử dụng, tách phần tài sản “nhà đất 13 Hồ Xuân Hương đang tranh chấp” để thụ lý giải quyết thành vụ án khác khi vợ chồng ông Hảo có Đơn yêu cầu và nộp tạm ứng án phí là không đúng vì vợ chồng ông Hảo đã có Đơn yêu cầu độc lập từ đầu. Toà án cấp phúc thẩm nhận định và quyết định buộc chị Việt phải chịu 74.766.300 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với giá trị ½ nhà đất số 13 Hồ Xuân Hương mà chị Việt yêu cầu chia cho chị Việt, nhưng không được chấp nhận; tuy nhiên, sau đó Tòa án cấp phúc thẩm lại ban hành Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 01/QĐ- SCBSBA ngày 29/6/2021 sửa cả phần nhận định và chỉ buộc chị Việt chịu án phí không có giá ngạch là 300.000 đồng đối với yêu cầu chia ½ giá trị nhà đất số 13 Hồ Xuân Hương, không được chấp nhận là trái quy định tại khoản 1 Điều 268 của Bộ luật tố tụng dân sự là chỉ được sửa chữa, bổ sung bản án trong trường hợp có lỗi về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai, chứ không được sửa chữa nội dung Bản án (từ nhận định dẫn tới quyết định trong bản án).

Về nội dung:

[3] Chị Việt khởi kiện cho rằng cha mẹ chồng (vợ chồng ông Hảo, bà Do) mua nhà đất số 13 Hồ Xuân Hương của Lê Công Hồ cho vợ chồng Chị và anh Tuấn thể hiện ở việc để vợ chồng chị Việt đứng tên Hợp đồng nhận chuyển nhượng nhà đất của ông Hồ và đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trong khi đó, vợ chồng ông Hảo bà Do cho rằng việc để vợ chồng chị Việt đứng tên trên Hợp đồng nhận chuyển nhượng, đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ để tạo điều kiện cho các con cháu nhập hộ khẩu, đi học, mà chưa cho vợ chồng chị Việt nhà đất, điều này thể hiện ở việc Ông Bà vẫn giữ giấy tờ nhà đất.

[4] Xét thấy: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 07/12/2017 tại Văn phòng Công chứng Tây Nguyên, thể hiện ông Lê Công Hồ chuyển nhượng cho vợ chồng anh Đỗ Anh Tuấn và chị Nguyễn Thị Thiên Việt quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri AL 471705 do Ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột cấp cho ông Lê Công Hồ ngày 16/11/2007 đối với thửa đất số 15, tờ bản đồ số 1, diện tích 293,8m2 tại phường Tân Tiến, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk (bút lục 37); vợ chồng anh Đỗ Anh Tuấn và chị Nguyễn Thị Thiên Việt được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đăk Lăk cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số sêri CM 144374 ngày 20/12/2017 đối với thửa đất số 15, tờ bản đồ số 1, diện tích 293,8m2 tại phường Tân Tiến, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk (bl 31); tại Bản tự khai ngày 04/02/2021, ông Lê Công Hồ cho biết: “Hôm ra công chứng tại Phòng công chứng Tây Nguyên có tôi là Lê Công Hồ và bà Đinh Thị Loan vợ 2 tôi cùng đi, bên mua có ông Hảo, bà Do, anh Tuấn, cô Việt và 1 cháu nhỏ. Sau khi làm việc với công chứng viên thì ông Hảo có nói là tôi (tức ông Hảo) để cho 2 vợ chồng cháu Tuấn ký hợp đồng với Anh (Tôi) để sau này khỏi phải sang tên đổi chủ. Tôi thấy bố mẹ cho con cái là chuyện bình thường nên tôi không ý kiến gì” (bl 27) và trên thực tế vợ chồng chị Việt được vợ chồng ông Hảo, bà Do cho quản lý, sử dụng nhà đất ngay sau khi ký Hợp đồng nhận chuyển nhượng (bl 12). Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên, Hội đồng giám đốc thẩm xét thấy đủ cơ sở xác định vợ chồng ông Hảo, bà Do bỏ tiền mua nhà đất của ông Lê Công Hồ và đã tặng cho vợ chồng con trai (anh Tuấn, chị Việt) quản lý, sử dụng ổn định nên là tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình; Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng chị Việt không xuất trình được giấy tờ chứng minh vợ chồng ông Hảo đã tặng cho nhà đất là không đúng quy định của pháp luật vì vợ chồng chị Việt đứng tên Hợp đồng nhận chuyển nhượng nhà đất, đứng tên Giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng nhà đất và quản lý, sử dụng nhà đất ổn định, không có tranh chấp đến khi 2 vợ chồng chị Việt phát sinh mâu thuẫn, xin ly hôn thì vợ chồng ông Hảo\ mới nại lý do chỉ cho vợ chồng chị Việt đứng tên nhà đất để tiện việc nhập khẩu, đi học.

[5] Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu SUZUKI Biển kiểm soát 47A-170.26 có Giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô số 023396 do Công an tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 22/11/2016 đứng tên anh Đỗ Anh Tuấn (bl 40), thì anh Tuấn, chị Việt đều thừa nhận đây là tài sản chung của vợ chồng, thống nhất xác định giá trị xe còn lại là 450.000.000 đồng, thống nhất anh Tuấn có quyền sở hữu xe và có nghĩa vụ thanh toán cho chị Việt 225.000.000 đồng; tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại tuyên “Giao cho anh Đỗ Anh Tuấn được quyền quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản là 01 xe ôtô nhãn hiệu Mada Biển kiểm soát 47A-170.26” là nhầm lẫn, dễ dẫn đến Cơ quan Thi hành án vướng mắc khi thi hành án (vì phải thực hiện bàn giao chiếc xe không đúng nhãn hiệu); do đó, khi giải quyết lại vụ án chia tài sản chung của vợ chồng đối với nhà đất 13 Hồ Xuân Hương thì không cần giải quyết lại đối với chiếc xe ô tô này, nhưng cần tuyên anh Tuấn được quyền sở hữu chiếc xe ô tô đúng nhãn hiệu SUZUKI (anh Tuấn đã nhận tài sản khi hai người ly hôn) để bảo đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của anh Tuấn.

Từ các tài liệu, chứng cứ dẫn chứng được phân tích tại các mục nêu trên, Hội đồng giám đốc thẩm xét thấy Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2022/KN-HNGĐ ngày 11/01/2022 của Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[Nguồn: QĐ GĐT số 01/2022/HNGĐ-GĐT Ngày 15/02/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn QĐ GĐT: 01/2022/HNGĐ-GĐT

Bài viết liên quan