Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án vì Tòa bỏ qua chứng cứ photo (kèm theo các chứng cứ khác) để xác định có quan hệ vay tài sản

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án vì Tòa bỏ qua chứng cứ photo (kèm theo các chứng cứ khác) để xác định có quan hệ vay tài sản

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Nguồn gốc 35.775 m2 đất, thuộc các thửa số 235, 236, 237, 243, 244, tờ bản đồ số 21, thôn Ea Krái, xã Đliê Ya, huyện K, tỉnh Đắk Lắk là tài sản của vợ chồng cụ Y Thiếu Niê và cụ H’Rah Mlô được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 684396 ngày 28/10/2009. Ngày 29/10/2009 vợ chồng cụ Y Thiếu Niê, cụ H’Rah ký giấy (không được công chứng, chứng thực) chuyển nhượng chung cho vợ chồng ông Nguyễn Hùng T (vợ là bà Nguyễn Thị T) và vợ chồng ông Nguyễn Hồng S (vợ là bà Nguyễn Thị L) 2.800m2 đất (28m mặt đường, sâu 100m) là một phần trong tổng diện tích 35.775 m2 đất thuộc 5 thửa đất nêu trên, với giá 55.000.000đ/sào và vợ chồng ông T và vợ chồng ông S đã trả vợ chồng cụ Y Thiếu Niê 100.000.000 đồng.

[2] Ngày 27/11/2009 vợ chồng cụ Y Thiếu Niê ký Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ 35.775m2 đất tại 5 thửa đất nêu trên cho vợ chồng con trai là ông Y Mlô (vợ ông Y Mlô là bà Đặng Thị Thùy L). Ngày 08/12/2009, vợ chồng ông Y Mlô được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri AN 680439 (do in nhầm nên ghi là cấp cho “hộ bà Đặng Thị Thùy L và ông Y Miên Mlô”- trả lời của UBND huyện K) đối với 35.775m2 đất tại 5 thửa đất nêu trên. Ngày 30/5/2012, tại Phòng Công chứng nhà nước số X tỉnh ĐắkLắk vợ chồng ông Y Mlô ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 35.775m2 đất tại 5 thửa đất nêu trên cho vợ chồng ông Võ Ngọc H (vợ ông H là bà K). Ngày 15/6/2012 vợ chồng ông H được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất số BG 629544 công nhận có quyền sử dụng cả 5 thửa đất nêu trên với tổng diện tích 35.775m2 .

[3] Ngày 04/12/2012, vợ chồng ông H khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Y Mlô giao đủ diện tích 35,775m2 đất (bao gồm cả 2.800m2 đất vợ chồng cụ Y Thiếu Niê đã chuyển nhượng chung cho vợ chồng ông T và vợ chồng ông S), đồng thời yêu cầu vợ chồng ông Y Mlô trả 490.000.000 đồng nợ gốc và yêu cầu trả lãi theo quy định của pháp luật. Trong khi đó, vợ chồng ông Y Mlô yêu cầu Tòa án hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/5/2012 vì vợ chồng ông H chưa thanh toán tiền; còn vợ chồng ông Nguyễn Hùng T và vợ chồng ông Nguyễn Hồng S yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Y Mlô với vợ chồng ông H đối với phần diện tích đất các Ông Bà đã nhận chuyển nhượng trước đó của vợ chồng cụ Y Thiếu Niê là vô hiệu.

[4] Bản án dân sự phúc thẩm số 28/2015/DSPT ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk quyết định giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2014/DSST ngày 22/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện K với quyết định: Không công nhận vợ chồng ông H có quyền sử dụng diện tích đất đã nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Y Mlô theo Hợp đồng lập tại Phòng công chứng số X tỉnh Đắk Lắk ngày 30/5/2012, vợ chồng ông Y Mlô được quyền liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất đã ký Hợp đồng chuyển nhượng và đã sang tên vợ chồng ông H; buộc vợ chồng ông Y Mlô trả vợ chồng ông H số tiền nợ 490.000.000 đồng.

[5] Tại Quyết định giám đốc thẩm số 25/2018/GĐT-DS ngày 12/01/2018, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 28/2015/DSPT ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2014/DS-ST ngày 22/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện K, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giải quyết sơ thẩm lại với nhận định:

[5.1]. Vợ chồng ông H trình bày giá chuyển nhượng 35.775m2 đất là 1.790.000.000 đồng; khấu trừ 2.000.000.000 đồng vợ chồng ông Y Mlô mượn theo bản photocopy Giấy biên nhận ngày 30/8/2010, 330.000.000 đồng vợ chồng ông H nộp vào Quỹ tín dụng Trung ương giải chấp quyền sử dụng 5 thửa đất vợ chồng ông Y Mlô thế chấp và vợ chồng ông Y Miên Mlô, 50.000.000 đồng vợ chồng ông Y Mlô trả thêm thì vợ chồng ông Y Mlô còn nợ 490.000.000 đồng nên đã viết Giấy ngày 29/5/2012 xác nhận nợ 490 triệu đồng (bút lục 12). Trong khi đó, vợ chồng ông Y Mlô trình bày giá chuyển nhượng 35.775m2 đất là 1.967.000.000 đồng, vợ chồng ông H lừa Ông Bà ký hợp đồng nhưng không giao tiền; khấu trừ 490.000.000 đồng nợ theo Giấy xác nhận ngày 29/5/2012 thì vợ chồng ông H còn nợ vợ chồng ông Y Mlô 1.477.000.000 đồng nên phản tố yêu cầu vợ chồng ông H trả 1.477.000.000đồng, sau đó thay đổi yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng (bút lục 159). Đối với việc ông H xuất trình bản photocopy Giấy biên nhận ngày 30/8/2010 để cho rằng vợ chồng ông Y Mlô có vay vợ chồng ông H 2.000.000.000 đồng thì vợ chồng ông Y Mlô không thừa nhận, tuy nhiên, bà L lại khai “Ông H khai tôi nợ 2.000.000.000 đồng tôi không đồng ý, đây là khoản tiền góp vốn làm ăn chung của những năm trước chúng tôi đã thanh toán với nhau…Sau khi hoàn thành nghĩa vụ trả nợ chúng tôi đều xé hai bản giấy gốc”, “Giấy tờ nhận tiền làm ăn trước đây không còn, năm nào thanh toán hết năm đó, chỉ còn nợ 490.000.000 đồng” (bút lục 157, 159, 203) và tại Đơn yêu cầu phản tố ngày 24/8/2014, ông Y Mlô khai “Chỉ có năm 2008, chúng tôi có mượn tiền của ông H (thực chất là góp vốn làm ăn chung), chúng tôi trả nợ, ông H trả lại giấy biên nhận gốc và tôi đã xé bỏ. Sau đó, năm 2009, chúng tôi có mượn của ông H và chúng tôi cũng đã trả nợ, ông H cũng đã trả lại bản gốc giấy vay mượn tiền này và chúng tôi cũng đã xé” (bl 137). Xét, nội dung các tài liệu trên thể hiện, tuy vợ chồng ông Y Mlô không trực tiếp thừa nhận có vay vợ chồng ông H 2 tỷ đồng theo bản photocopy Giấy biên nhận ngày 30/8/2010, nhưng gián tiếp thừa nhận trước đây có nhận của vợ chồng ông H tiền góp vốn làm ăn chung, tổng kết thì còn nợ vợ chồng ông H 490.000.000 đồng nên đã viết Giấy xác nhận nợ ngày 29/5/2012. Do đó, trong trường hợp này, lẽ ra Tòa án cần yêu cầu hai bên cung cấp thêm chứng cứ, tổ chức đối chất để làm rõ có phải chữ ký của vợ chồng ông Y Mlô tại Giấy biên nhận ngày 30/8/2010 hay không? vợ chồng ông Y Mlô khai trước đây có nhận tiền vợ chồng ông H góp vốn làm ăn chung thì đã nhận bao nhiêu? đã thanh toán bao nhiêu để đến ngày 29/5/2012 chốt sổ thì còn nợ 490.000.000 đồng nên đã viết Giấy xác nhận nợ? Làm rõ có hay không việc vợ chồng ông H vay 1.000.000.000 đồng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Đắk Lắk, Phòng giao dịch Đại học Tây Nguyên theo Hợp đồng tín dụng số 2012057247 ngày 24/5/2012 và cho vợ chồng ông Y Mlô vay lại 330.000.000 đồng để tất toán giải chấp tài sản? Làm rõ ngày 29/5/2012 vợ chồng ông H hay vợ chồng ông Y Mlô là người trực tiếp nộp 330.000.000 đồng vào Quỹ tín dụng Trung ương để tất toán giải chấp tài sản? Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/5/2012 giữa vợ chồng ông Y Mlô với vợ chồng ông H vô hiệu và chỉ căn cứ Giấy xác nhận ngày 29/5/2012, buộc vợ chồng ông Y Mlô trả vợ chồng ông H 490.000.000 đồng mà không xem xét yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông H trình bày về việc có cho vợ chồng ông Y Mlô vay 2.000.000.000 đồng theo nội dung Giấy biên nhận ngày 30/8/2010 (bản photocopy) là chưa giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự. Tòa án cấp phúc thẩm trong khi chưa làm rõ những vấn đề nêu trên, nhưng đã nhận định Giấy biên nhận ngày 30/8/2010 do ông H xuất trình là bản photocopy nên không có giá trị pháp lý chứng minh; từ đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông H trình bày về khoản tiền cho vay 2 tỷ đồng là chưa đủ cơ sở.

[5.2]. Vợ chồng cụ Y Thiếu Niê được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 684396 ngày 28/10/2009 công nhận có quyền sử dụng 35.775m2 đất. Ngày 29/10/2009, vợ chồng cụ Y Thiếu Niê viết giấy (không có công chứng, chứng thực) chuyển nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn Hùng T và vợ chồng ông Nguyễn Hồng S 2.800m2 đất (28m mặt đường, sâu 100m), vợ chồng ông T và vợ chồng ông S đã nhận đất, sử dụng. Do đó, việc ngày 27/11/2009, vợ chồng cụ Y Thiếu Niê ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng toàn bộ 35.775m2 đất nêu trên cho vợ chồng con trai là ông Y Mlô (vợ là bà L) và do thiếu kiểm tra nên ngày 08/12/2009 UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 680439 công nhận vợ chồng ông Y Mlô (in nhầm thành “hộ…”) có quyền sử dụng toàn bộ 35.775m2 đất là không đúng. Tiếp đó, ngày 30/5/2012, tại Phòng công chứng số X tỉnh Đắk Lắk, vợ chồng ông Y Mlô ký Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích 35.775m2 đất nêu trên cho vợ chồng ông H và ngày 15/6/2012 vợ chồng ông H được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất số BG 629544 công nhận có quyền sử dụng toàn bộ diện tích 35.775m2 đất cũng là không đúng. Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký giữa vợ chồng ông Y Mlô với vợ chồng ông H ngày 30/5/2012 đối với phần diện tích 2.800m2 đất mà vợ chồng ông T và vợ chồng ông S đã nhận chuyển nhượng từ vợ chồng cụ Y Thiếu Niê ngày 29/10/2009 là vô hiệu. Vợ chồng ông Nguyễn Hùng T và vợ chồng ông Nguyễn Hồng S là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có yêu cầu độc lập, yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Y Mlô với vợ chồng ông H đối với phần diện tích đất các Ông Bà đã mua trước đó của vợ chồng cụ Y Thiếu Niê vô hiệu và giải quyết công nhận quyền sử dụng diện tích đất này cho các Ông Bà, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét đến yêu cầu của những người này trong cùng vụ án là thiếu sót, giải quyết không triệt để vụ án. Đối với phần diện tích đất còn lại 32.975m2 (35.775m2 – 2.800m2 ) theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký giữa vợ chồng ông Y Mlô với vợ chồng ông H ngày 30/5/2012 tại Phòng công chứng số X tỉnh Đắk Lắk thì vợ chồng ông H đã được UBND huyện K công nhận có quyền sử dụng đất theo nội dung Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất số BG 629544 ngày 15/6/2012, tuy nhiên, như đã phân tích ở các mục trên thì cần làm rõ vợ chồng ông H đã thanh toán tiền nhận chuyển nhượng cho vợ chồng ông Y Mlô (như trình bày của vợ chồng ông H là vợ chồng ông YMiên Mlô có vay vợ chồng ông H 2 tỷ đồng ngày 30/8/2010…vv) hay chưa? từ đó mới có cơ sở xem xét hiệu lực của việc chuyển nhượng diện tích 32.975m2 đất này.

[6] Không đồng ý với nhận định tại Quyết định giám đốc thẩm số 25/2018/GĐT-DS ngày 12/01/2018 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, ngày 12/4/2018 Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk có Văn bản số 228/TA-DS kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng (bút lục 503 – 506). Tại Thông báo giải quyết Đơn đề nghị giám đốc thẩm số 213/TB-TA ngày 18/6/2018 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (do Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thừa ủy quyền ky) trả lời Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk như 14 sau: “Việc vợ chồng ông Y Mlô chuyển nhượng 35.775m2 đất rẫy cho vợ chồng H là xuất phát từ việc vợ chồng ông Y Mlô nợ 2.000.000.000 đồng của vợ chồng ông H theo Giấy biên nhận ngày 30/8/2010 (bản photocopy nhưng bà L thừa nhận đã ký giấy này). Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/5/2012 giữa vợ chồng ông Y Mlô với vợ chồng ông H vô hiệu và vợ chồng ông Y Mlô chỉ nợ vợ chồng ông H 490.000.000 đồng theo Giấy xác nhận nợ ngày 29/5/2012; từ đó hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/5/2012 giữa vợ chồng ông Y Mlô với vợ chồng ông H và buộc vợ chồng ông Y Mlô trả cho vợ chồng ông H số tiền 490.000.000 đồng là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng Giấy biên nhận ngày 30/8/2010 do ông H xuất trình là bản photocopy nên không có giá trị pháp lý, từ đó giữ nguyên bản án sơ thẩm cũng là không đúng…” (bl 514)

[7] Từ các tài liệu, chứng cứ viện dẫn, phân tích và trả lời của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nêu trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét thấy: Đủ cơ sở xác định vợ chồng ông Y Mlô có vay vợ chồng ông H theo nội dung Giấy biên nhận ngày 30/8/2010 số tiền 2.000.000.000 đồng, cuối năm 2011 vợ chồng ông Y Mlô đã trả 50.000.000 đồng nên còn nợ 1.950.000.000 đồng. Do không có tiền trả nợ nên vợ chồng ông Y Mlô đồng ý chuyển nhượng cho vợ chồng ông H quyền sử dụng 35.775m2 đất tại các thửa đất số 235, 236, 237, 243, 244 mà vợ chồng ông Y Mlô được Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri AN 680439 ngày 08/12/2009. Do quyền sử dụng các thửa đất này hiện vợ chồng ông Y Mlô đang thế chấp vay tiền tại Quỹ tín dụng Trung ương – Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk, do đó vợ chồng ông H đã nộp vào Quỹ tín dụng Trung ương – Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk 330.000.000 đồng giải chấp tài sản thế chấp và ngày 30/5/2012 tại Phòng Công chứng nhà nước số X tỉnh Đắk Lắk vợ chồng ông Y Mlô ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng cho vợ chồng ông H quyền sử dụng 5 thửa đất nêu trên với giá 1.790.000.000 đồng. Sau khi khấu trừ 1.950.000.000 đồng vợ chồng ông Y Mlô còn nợ và 330 triệu đồng vợ chồng ông H đã nộp vào Quỹ tín dụng Trung ương – Chi nhánh tỉnh Đắk Lắk (nay là Ngân hàng HTX Việt Nam – Chi nhánh Đăk Lăk) thì vợ chồng ông Y Mlô đã viết Giấy ngày 29/5/2012 xác nhận còn nợ vợ chồng ông H 490.000.000 đồng (bút lục 12). Vợ chồng ông H đã được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BG 629544 ngày 15/6/2012 công nhận có quyền sử dụng 35.775m2 đất tại 05 thửa đất. Vì các lẽ trên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không công nhận có việc vợ chồng ông H đã trả đủ tiền nhận chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Y Mlô theo nội dung Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 30/5/2012 tại Phòng Công chứng nhà nước số X tỉnh Đắk Lắk nên không công nhận Hợp đồng chuyển nhượng mà chỉ xác định vợ chồng ông Y Mlô còn nợ vợ chồng ông H 490 triệu đồng để buộc trả nợ, là không đúng với các tài liệu, chứng cứ khách quan có trong hồ sơ vụ án đã được Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng nhận định tại Quyết định giám đốc thẩm và trả lời của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (do Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thừa ủy quyền ký) tại Thông báo số 213/TB-TA ngày 18/6/2018.

[8] Xét, đối với diện tích 35.775m2 đất, tại các thửa đất số 235, 236, 237, 15 243, 244 mà vợ chồng ông Y Mlô được Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri AN 680439 ngày 08/12/2009; năm 2012 chuyển nhượng cho vợ chồng ông H và vợ chồng ông H được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BG 629544 ngày 15/6/2012 thì: [8.1]. Năm 2009 vợ chồng cụ Y Thiếu Niê (là cha mẹ ông Y Miên Mlô) đã viết giấy (không có công chứng, chứng thực) chuyển nhượng chung cho vợ chồng ông Nguyễn Hồng T và vợ chồng ông Nguyễn Hồng S 2.800m2 đất, trước khi ký Hợp đồng chuyển nhượng đất (có công chứng) chuyển nhượng cho vợ chồng ông Y Miên Mlô. Vợ chồng ông Y Mlô căn cứ Bản án dân sự phúc thẩm số 28/2015/DSPT ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk có hiệu lực thi hành, liên hệ và được UBND huyện K cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích 35.775m2 đất tại 05 thửa đất trước đây. Sau đó, vợ chồng ông Y Mlô ký Hợp đồng chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Nguyễn Hồng S, vợ chồng ông S được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri CĐ 202766 ngày 21/01/2016 đối với 3.488m2 đất (gồm thửa số 269 diện tích 1.288,0m2 và thửa số 275 diện tích 2.200m2 , tờ bản đồ 21), tại xã Đliê Ya, huyện K; [8.2]. Vợ chồng ông Y Mlô còn ký Hợp đồng chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Lê Thanh Ng (vợ chồng ông Ng được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri CG 021191 ngày 13/01/2017 đối với thửa đất số 299, tờ bản đồ số 98 diện tích 16.009,9m2 ); ký Hợp đồng chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Đặng Trần V (vợ chồng ông V được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số sêri CG 021192 ngày 13/01/2017 đối với thửa đất số 298, tờ bản đồ số 98, diện tích 13.990,6m2 ) đều tại xã Đliêya, huyện K; [8.3]. Theo quy định tại Điều 138 Bộ luật dân sự 2005 (Điều 133 Bộ luật dân sự 2015) thì vợ chồng ông Nguyễn Hồng S, vợ chồng ông Lê Thanh Ng và vợ chồng ông Đặng Trần V giao dịch nhận chuyển nhượng đất với vợ chồng ông Y Mlô (người có quyền sử dụng đất theo quyết định tại Bản án dân sự phúc thẩm số 28/2015/DSPT ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk có hiệu lực thi hành) nên là người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền sử dụng diện tích đất đã nhận chuyển nhượng.

[9] Từ các tài liệu, chứng cứ viện dẫn và phân tích tại các luận điểm nêu trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 61/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 11/5/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 187/2020/DS-PT ngày 05/10/2020 của Tòa án nhận dân tỉnh Đắk Lắk và hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 06/2020/DS-ST ngày 02/3/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm lại: Buộc vợ chồng ông Y Mlô trả vợ chồng ông H số tiền còn nợ 490 triệu đồng và buộc trả lãi; Buộc vợ chồng ông Y Mlô trả vợ chồng ông H giá trị quyền sử dụng diện tích đất đã nhận chuyển nhượng theo nội dung Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 30/5/2012 tại Phòng Công chứng nhà nước số X tỉnh Đắk Lắk theo giá trị trường tại thời điểm hiện tại.

[Nguồn: Quyết định GĐT số 52/2021/DS-GĐT Ngày 9/7/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định GĐT: Số 52/2021/DS-GĐT

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng:

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế:

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan