NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về tổ chức và hoạt động của công ty TNHH S2:
[1] Công ty TNHH S2 có trụ sở chính đặt tại số B, quốc lộ E, ấp C xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang; vốn điều lệ là 100.000.000.000 do hai thành viên góp vốn là ông Đoàn Văn S1 (góp 50%) và ông Trần Văn S (góp 50%) (giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, đăng ký lần đầu vào ngày 10/11/2015-bút lục 90- TAND Tp.).
Theo biên bản họp hội đồng thành viên vào ngày 16/10/2020, công ty TNHH S2 có thêm 02 (hai) thành viên góp vốn mới (là ông Nguyễn Văn T3 và bà Nguyễn Thị M1-bút lục 25-TAND Tp.).
[2]Ông Trần Văn T khởi kiện, đòi ông Trần Văn S phải trả số tiền vốn gốc là 100.172.000.000 đồng và số tiền lãi là 21.425.277.000 đồng; chứng cứ mà ông Trần Văn T xuất trình là 02 (hai) giấy biên nhận sau đây:
– Biên nhận là “Giấy mượng tiền” ghi ngày 16/08/2019 Dương lịch (là ngày 16/07/2019 Âm lịch), số tiền vay là 3.000.000.000 đồng; thời hạn vay cho đến ngày 23/08/2019, có trả lãi nhưng không ghi lãi suất; bên cạnh chữ ký của ông Trần Văn S, có đóng dấu của công ty TNHH S2;
– Biên nhận là “Giấy vay tiền” ghi ngày 08/04/2020 Âm lịch; số tiền vay là 97.172.000.000 đồng, thời hạn vay là 10 ngày, không thỏa thuận trả tiền lãi; giấy biên nhận này chỉ có chữ ký của ông Trần Văn S.
[3] Đánh giá về 02 (hai) giấy biên nhận nói trên:
[3.1]Xét về giấy biên nhận là “Giấy mượng tiền” ghi ngày 16/08/2019 Dương lịch (là ngày 16/07/2019 Âm lịch), số tiền vay là 3.000.000.000 đồng, có chữ ký của ông Trần Văn S và đóng dấu của công ty TNHH S2:
– Theo phiếu chỉ số PC19090010 ngày 03/09/2019 của công ty TNHH S2, công ty trả cho ông Trần Văn T (tên ghi trong phiếu chi là “anh L” tức là ông Trần Văn T, chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên L2-bút lục 09-TAND Tp 1) số tiền là 1.000.000.000 đồng;
– Theo phiếu chỉ số PC19110064 ngày 15/11/2019 của công ty TNHH S2, công ty trả cho ông Trần Văn T số tiền là 1.500.000.000 đồng.
Như vậy, theo 02 phiếu chỉ nói trên, thì sau ngày vay tiền (16/08/2019), công ty TNHH S2 đã trả cho ông Trần Văn T một khoản tiền là 2.500.000.000 đồng.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều chưa xác minh, làm rõ về những khoản tiền nói trên trong mối liên hệ với khoản tiền theo giấy biên nhận 16/08/2019.
[3.2]Xét về giấy biên nhận là “Giấy vay tiền” ghi ngày 08/04/2020 Âm lịch; số tiền vay là 97.172.000.000 đồng, thời hạn vay là 10 ngày:
Theo ông Trần Văn T, thì khoản tiền nói trên xuất phát từ giao dịch mua- bán thanh long giữa hai bên (ông Trần Văn T là người bán; ông Trần Văn S là người mua), rồi tổng kết lại thành số nợ là 97.172.000.000 đồng.
Như vậy, khoản nợ nói trên, xét về mặt thời gian, đã có từ trước khi thiết lập giấy biên nhận ngày 08/04/2020 Âm lịch, không phải là một khoản tiền vay thực hiện như hình thức và nội dung của giấy biên nhận đã thiết lập. Trong trường hợp đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cần thiết phải yêu cầu ông Trần Văn T xuất trình tài liệu, chứng cứ để đối chiếu, xem xét, đánh giá về quá trình giao dịch (mua-bán thanh long) giữa hai bên, bởi vì đây là khoản tiền rất lớn và diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Sự việc này, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều chưa thực hiện, mà chỉ căn cứ vào giấy biên nhận, rồi xét xử, buộc ông Trần Văn S phải trả nợ, là chưa đủ căn cứ pháp luật.
[4] Một vấn đề khác cũng cần lưu ý, đó là trong khoảng thời gian từ ngày 28/02/2019 cho đến ngày 10/04/2019, công ty TNHH S2 đã phải trả cho ông Trần Văn T số tiền vốn và lãi, tổng cộng là 23.638.000.000 đồng (trả 105.000.000 đồng để trả lãi của khoản vay 6.000.000.000 đồng vào ngày 27 và 28/02/2019; ngày 19/03/2019, trả 7.070.000.000 đồng để trả tiền gốc và tiền lãi của ngày 19/03/2019; ngày 08/04/2019, trả 8.686.000.000 đồng và ngày 09/04/2019 trả 4.040.000.000 đồng; ngày 10/04/2019, trả số tiền 3.737.000.000 vốn gốc và lãi).
Sự việc trả tiền vốn và tiền lãi nói trên, có thể là giao dịch vay tiền tỉnh theo ngày, lãi suất là là 10%/ngày (tức là 3.650%/năm), vượt quá quy định của pháp luật dân sự chi phối việc vay tiền giữa hai bên. Trong trường hợp đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cần phải thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ, bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng pháp luật.
[Nguồn: Quyết định GĐT số: 171/2024/DS-GĐT ngày 17/6/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định GĐT số: 171/2024/DS-GĐT
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn