NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Ông Trần Văn V1 khởi kiện ông Nguyễn Thanh P1 và bà Phạm Thị N1 yêu cầu trả số tiền 4.811.500.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án, ông V1 cung cấp giấy vay tiền ngày 24/4/2011, có nội dung: “Tôi Nguyễn Thanh P1 cùng vợ là Phạm Thị N1 … có mượn tiền Trần Văn V1 cư trú K1, K2 số tiền 3.600.000.000 đồng. Chúng tôi đã nhận đủ số tiền trên”. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của ông V1 buộc ông P1 và bà N1 trả số tiền 3.600.000.000 đồng, là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2]. Ngoài việc giải quyết quan hệ tranh chấp vay tài sản, Bản án dân sự phúc thẩm số 15/2018/DS-PT ngày 18/4/2018 Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông còn giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2017/DS-ST ngày 18/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện K7, tỉnh Đắk Nông tiếp tục áp dụng Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 03/2011/QĐ-BPKCTT ngày 24/6/2011 về việc cấm ông Nguyễn Thanh P1, bà Phạm Thị N1 không được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất đối với diện tích 1.410m2 đất thuộc thửa 01 và diện tích 30.176m2 đất thuộc thửa k, tọa lạc tại Ấp 2 và Ấp 9, xã K8, huyện K9, tỉnh Bình Phước để đảm bảo cho việc thi hành án.
[3]. Xét thấy, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên có liên quan đến tài sản là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Thái S1, bà Hoàng Thị Thanh H2 với bị đơn là ông Nguyễn Thanh P1, bà Phạm Thị N1. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện K7 ban hành Công văn số 12/CV-TA ngày 20/5/2011 gửi các cơ quan chức năng đề nghị không ký xác nhận việc chuyển nhượng đất nêu trên, ông S1 đã có đơn ngày 16/6/2011 (bút lục 27) đề nghị Tòa án xem xét việc ngăn chặn nhưng không được xem xét giải quyết, và đến ngày 24/6/2011 Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tiếp tục ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 03/2011/QĐ-BPKCTT.
[4]. Ông S1 nộp đơn yêu cầu xem xét Bản án theo trình tự giám đốc thẩm, xuất trình các tài liệu, chứng cứ: “VĂN BẢN THỎA THUẬN” ngày 21/02/2011, giữa ông Vũ Thái S1, bà Hoàng Thị Thanh H2 và ông Nguyễn Thanh P2, bà Phạm Thị N1 về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất, bao gồm: diện tích 1.410m2 đất thuộc thửa 01 và diện tích 30.176m2 đất thuộc thửa k, tọa lạc tại Ấp 2 và Ấp 9, xã K8, huyện K9, tỉnh Bình Phước với giá là 2.000.000.000 đồng. Ông S1 cho rằng đã trả tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông P1 và bà N1 được thể hiện tại “GIẤY BIÊN NHẬN TIỀN” ngày 21/02/2011; Giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước ngày 06/4/2011 và Giấy nhận tiền ngày 11/4/2019. Xét, các chứng cứ ông S1 cung cấp về việc chuyển nhượng, thanh toán tiền giữa Ông với ông P1, bà N1 được thực hiện trước thời điểm ông V1 cho ông P1 và bà N1 vay tiền, chỉ có Giấy nhận tiền ngày 11/4/2019 thể hiện ông S1 tiếp tục trả cho ông P1 số tiền 60.000.000 đồng là sau thời điểm ông V1 với ông P1, bà N1 thỏa thuận việc vay tiền, phát sinh tranh chấp và Tòa án thụ lý giải quyết. Ngoài ra, diện tích đất chuyển nhượng cũng không có tranh chấp hoặc bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào ngăn chặn không cho phép chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Việc chuyển nhượng tại thời điểm này cũng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy ông P1, bà N1 tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ đối với ông V1.
[5]. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của ông V1 buộc ông P1 và bà N1 trả số tiền 3.600.000.000đồng là có căn cứ, nhưng không xem xét giải quyết đơn đề nghị của ông S1 ngày 16/6/2011, không đưa ông S1 tham gia tố tụng để giải quyết trong cùng vụ án này, và việc tiếp tục quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không đúng, đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định tại Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự. Kháng nghị đề nghị hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm là không cần thiết, mà chỉ cần hủy một phần bản án đối với những sai sót nêu trên.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 03/2022/DS-GĐT ngày 05/01/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số: 03/2022/DS-GĐT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn