Feel free to go with the truth

Trang chủ / Nghiên cứu học tập / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án về tranh chấp yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án về tranh chấp yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bà Phan Thị Đ, bà Phan Thị Cẩm L có đơn kháng cáo hợp lệ và thực hiện thủ tục kháng cáo trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về nội dung xét kháng cáo:

Bà Phan Thị Đ khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với di sản của vợ chồng cụ Phan Văn C3 (chết 1986) và cụ Nguyễn Thị Đ1 (chết 1990) để lại là quyền sử dụng đất của các thửa đất: Thửa đất số 74, diện tích 1.286m2; thửa đất số 132, diện tích 3.230m2; thửa đất số 255, diện tích 567m2; thửa đất số 257, diện tích 4.345m2; thửa đất số 261, diện tích 3.806m2  và thửa đất số 303, diện tích 3.987m2 cùng tờ bản đồ HMAC4, tại ấp M, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang đã được Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 2487.QSDĐ ngày 27/4/1999 cho hộ bà Phan Thị S (gọi tắt là thửa đất số 74, 132, 255, 257, 261, 303). Cụ thể: chia diện tích 168,4m2  thuộc thửa đất số 74; diện tích 692,9m2  thuộc thửa đất số 132 và diện tích 2000m2  thuộc các thửa đất số 257, 261, 303, cùng tờ bản đồ HMAC4, tại M, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Theo văn bản số 1898/VPĐKĐĐ-TTLT ngày 13/11/2024 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Tiền Giang về việc cung cấp hồ sơ, tài liệu (hồ sơ theo Chỉ thị 299) đối với tên chủ sử dụng ruộng đất Nguyễn Thị Đ1 tại ấp M, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang: Theo Sổ đăng ký ruộng đất (Ủy ban nhân dân xã ký năm 1984) thì tên chủ sử dụng ruộng đất đối với thửa đất số 132, 133 (lô số 01) là “Nguyễn Thị Đ1 + L”; theo Sổ đăng ký ruộng đất (Ủy ban nhân dân xã ký năm 1984) thì tên chủ sử dụng ruộng đất đối với thửa đất số 373, 369 là “Nguyễn Thị Đ1.

Quá trình tố tụng, bà Phan Thị S khai nhận các thửa đất số 74, 132, 255, 257, 261 và 303 có một phần do cha mẹ cho, có một phần do bà Phan Thị S nhận chuyển nhượng của người khác, đến năm 1999 bà tiến hành kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà đã chuyển nhượng cho người khác phần diện tích đất 168,4m2  (thửa đất số 74) và phần diện tích 692,9m2  (thửa đất 132) nhưng không rõ thời gian, trong đó có ông Võ Văn C4 xây dựng nhà kiên cố (trước khi xét xử sơ thẩm).

Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 12/8/2025, trên phần diện tích thuộc thửa đất số 74 (bà Phan Thị Đ yêu cầu chia) có 01 căn nhà có cấu trúc: cột, móng bê tông cốt thép, mái tole, vách tường có ốp gạch men thuộc quyền sở hữu của ông Võ Văn C4.

Từ những tình tiết trên, cho thấy:

Thứ nhất, một phần diện tích các thửa đất 74, 132, 255, 257, 261 và 303 có nguồn gốc của cụ Nguyễn Thị Đ1 và Phan Văn C3. Theo hồ sơ 299, cụ Nguyễn Thị Đ1 cùng người tên “L” đứng tên chủ sử dụng các thửa đất số 132, 133 (lô số 01) tờ bản đồ số 1 của xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang, cụ Nguyễn Thị Đ1 đứng tên chủ sử dụng các thửa đất số 373, 369 (lô số 01) tờ bản đồ số 01A của xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Thứ hai, bà Phan Thị S đã chuyển nhượng cho người khác một phần diện tích của các thửa đất số 74, 132, trong đó có ông Võ Văn C4 đã nhận đất và xây dựng nhà ở trên đất.

Tuy vậy, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm khi xét xử chưa thu thập chứng cứ làm rõ mối quan hệ giữa các thửa đất số 132, 133, 373, 369 (theo hồ sơ 299) và các thửa đất số 74, 132, 255, 257, 261, 303 (do bà Phan Thị S đứng tên quyền sử dụng đất), trường hợp có căn cứ xác định các thửa đất số 74, 132, 255, 257, 261, 303 có nguồn gốc từ các thửa đất số 132, 133, 373, 369 thì phải làm rõ bà Phan Thị S xác lập, kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng các thửa đất số 74, 132, 255, 257, 261, 303 trên cơ sở nào của pháp luật đất đai, chủ sử dụng đất tên “L” đứng tên cùng cụ Nguyễn Thị Đ1 là ai, có quyền lợi như thế nào đối với các thửa đất số 132, 133. Từ đó mới có căn cứ xác định các thửa đất số 74, 132, 255, 257, 261, 303 có phải là di sản của cụ Nguyễn Thị Đ1 và cụ Phan Văn C3 hay không, nhằm đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của những người thừa kế, người thứ ba.

Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ làm rõ những người nhận chuyển nhượng đất tranh chấp do bà Phan Thị S chuyển nhượng, trong đó có ông Võ Văn C4 (đã xây dựng nhà ở ổn định) để đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi giải quyết vụ án.

Những thiếu sót nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm không thể khắc phục tại giai đoạn xét xử phúc thẩm. Do vậy, để đảm bảo nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, cần hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm khắc phục những thiếu sót nêu trên, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự.

Căn cứ hủy bản án sơ thẩm do đương sự cung cấp, Tòa án thu thập trong quá trình xét xử phúc thẩm nên không có lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm.

Do hủy bản án dân sự sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm nên Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét kháng cáo của bà Phan Thị Đ, Phan Thị Cẩm L.

[3]. Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Về án phí: Do bản án bị hủy nên bà Phan Thị Đ, Phan Thị Cẩm L không phải chịu án phí phúc thẩm, nghĩa vụ chịu án phí được xác định lại khi giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[5]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp là có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[Nguồn: Bản án số 19/2025/DS-PT ngày 30/9/2025 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 719/2025/DS-PT

………………….

Luật sư FDVN

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường Bình Lợi Trung, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Chung cư Báo Công an nhân dân, 23 đường Nghiêm Xuân Yêm, xã Đại Thanh, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

1421 Nguyễn Tất Thành, phường Quỳnh Mai, Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Trường Vinh Tân, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, phường Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan