NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Ông C1 có ba người vợ là bà G, bà M1, bà Q1; ông C1 và bà G có 01 người con là bà Nguyễn Thị N1; ông C1 và bà Võ Thị Q1 có 04 người con là bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị L4, Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Ngọc A; ông C1 và bà M không có con chung. Các đương sự đều thống nhất xác định hàng thừa kế thứ nhất của ông C1 gồm bà N1, bà N, bà L4 (chết), bà C, ông A và bà M (đã chết). Trong đó, bà N chết, xác định người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bà N gồm các ông, bà Trương Thị Hồng L, Trương Thị L1, Trương Thị T, Trương Thị T1, Trương Quang H, Trương Hồng P, Trương Lộc T2, Trương Văn L2. Ông Nguyễn Ngọc A chết có vợ là bà Nguyễn Thị L3 (bị đơn) và hai con là ông Nguyễn Anh K và bà Nguyễn Thị Anh T5. Bà L4 chết có người thừa kế là các bà Nguyễn Thị Phương N2, Nguyễn Thị Phương T9, Nguyễn Thị Như T3.
Về xác định di sản: các đương sự đều thừa nhận thửa đất số 347, tờ bản đồ số 42, diện tích 1.522m2 (đất ở 250m2, đất trồng cây hằng năm 1.272m2) có nguồn gốc đất do ông bà để lại cho ông C1 và vợ con. Sau khi bà G chết năm 1948, bà N1 là người thừa kế của bà G không yêu cầu chia thừa kế di sản mà tự nguyện đưa di sản của bà G vào khối di sản chung để phân chia, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận sự tự nguyện của đương sự là đúng.
Nguyên đơn cho rằng toàn bộ thửa đất số 347, diện tích 1.522m2, tờ bản đồ số 42 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Ngọc A, bà Nguyễn Thị L3 vào năm 2014 là di sản của cụ C1 để lại. Năm 2015, thửa đất số 347 được tách thành 02: thửa 352, diện tích 100m2 đất và thửa 353, diện tích 1.422m2 (trong đó đất ở 250m2, đất trồng cây hằng năm 1.172m2). Thửa 352 được ông A tặng cho bà Nguyễn Thị L4 vào năm 2015.
Tại Công văn số 226/UBND ngày 08/5/2023 của Ủy ban nhân dân xã H có nội dung: thửa đất số 347, tờ bản đồ số 42 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông A, bà Lý trùng một phần thửa 266 tờ bản đồ 351D, đồng thời trùng một phần diện tích thửa 629 tờ bản đồ 9A (năm 1994). Thửa 629 tờ bản đồ 9A theo hồ sơ lưu tại UBND xã thì thửa đất này đã được cân đối Nghị định 64/CP cho 07 nhân khẩu trong hộ ông A, bà L3 với diện tích 1120m2.
Tuy nhiên, các tài liệu có tại hồ sơ vụ án chỉ có đơn đăng ký quyền sử dụng đất do ông Nguyễn Ngọc A viết gửi UBND xã H vào ngày 20/2/1995, chưa có xác nhận của Hội đồng xét giao quyền sử dụng ruộng đất xã H nên không thể căn cứ vào đơn xin chưa được xét duyệt để xác định đất đã cân đối theo NĐ 64/CP.
Việc thực hiện Nghị định 64/CP tại xã H từ năm 1998 và được UBND huyện T cũ (nay là UBND thị xã Đ) cấp Giấy chứng nhận đất nông nghiệp từ năm 1998 chứ không phải năm 2014. Hơn nữa, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Ngọc A năm 2014 đối với diện tích đất nêu trên có nguồn gốc là đất được công nhận quyền sử dụng đất chứ không phải đất được Nhà nước giao quyền sử dụng đất.
Bản án sơ thẩm căn cứ vào Đơn đăng ký quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Ngọc A lập năm 1995 và lời trình bày của Công chức địa chính để nhận định: di sản là quyền sử dụng 250m2 đất ở hiện vợ chồng ông A đang sử dụng, đối với 1.120 m2 đất còn lại trong thửa đất nêu trên đã được cân đối theo NĐ 64 nên không còn là di sản. Từ nhận định này, Bản án sơ thẩm chỉ chia giá trị di sản quyền sử dụng 250m2 đất ở là chưa đảm bảo căn cứ vững chắc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các đương sự.
Vì vậy, chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-DS ngày 12/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên, huỷ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại.
[Nguồn: Bản án số 301/2024/DS-PT ngày 20/9/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 301/2024/DS-PT
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn