Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án tranh chấp thừa kế do xác định không đúng di sản, đánh giá chứng cứ không đúng ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của các đương sự.

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án tranh chấp thừa kế do xác định không đúng di sản, đánh giá chứng cứ không đúng ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của các đương sự.

NHN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình bày, tranh luận của đương sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H, bị đơn ông Nguyễn H1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Dương Thị Kim H2, bà Nguyễn Thị T1 là hợp lệ, trong thời hạn pháp luật quy định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành giải quyết vụ án theo trình tự thủ tục phúc thẩm. Đối với các đương sự vắng mặt tại phiên toà: Các đương sự vắng mặt tại phiên toà đã có ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Xét nguồn gốc thửa đất số 34:

Căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trình bày của các đương sự và các tài liệu chứng cứ khác do đương sự xuất trình có trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử, xét thấy:

Các ông, bà T, M, H1, H, T1 đều thừa nhận nguồn gốc thửa 34 có nguồn gốc của cố Đương mua của vợ chồng ông Bùi Đ3 theo Giấy bán đoạn mãi đất vào ngày 10/7/1958 (bút lục 247), sau đó cố Đương cho lại cụ Đ1. Sau năm 1975, Cụ Đ1 là người đứng tên trong Sổ đăng ký ruộng đất (Sổ 5b) theo bản đồ 299/TTg thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.495m2 (loại đất T); đối chiếu bản đồ đo vẽ năm 1998 là thửa đất số 34, tờ bản đồ số 08, diện tích 1.086,2m2 (loại đất T) và thửa đất số 35, tờ bản đồ số 08, diện tích 228,6m2 (loại đất T), (viết tắt là thửa 35). Bản án sơ thẩm xác định cụ Đ1 có chung sống với cụ Nguyễn N, 02 cụ có với nhau 06 người con chung nên thửa đất số 18 do cụ Đ1 đứng tên người trong sổ đăng ký ruộng đất là di sản của cụ Đ1 và cụ N để lại. Tuy nhiên, không xem xét đến việc cụ N đã chết vào ngày 18 tháng 4 năm 1975 (Bút lục số 45), trước khi giải phóng Miền Nam 30/4/1975 thống nhất đất nước nên không thể cùng cụ Đ1 đăng ký ruộng đất và đứng tên trong Sổ đăng ký ruộng đất (Sổ 5b) theo bản đồ 299/TTg thuộc thửa đất số 18 được. Ngoài ra, xem xét các tài liệu chứng cứ do các bên đương sự xuất trình có trong hồ sơ vụ án thì thấy, trong thời gian khi cụ N còn sống thì cũng không thấy giấy tờ nào có thể hiện là cụ N đã kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và không có các giấy tờ chứng minh về quyền sử dụng đất là hợp pháp theo quy định của pháp luật. Sau năm 1975, cụ Đ1 là người kê khai đứng tên trong Sổ đăng ký ruộng đất (Sổ 5b) theo bản đồ 299/TTg thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.495m 2 (loại đất T); đối chiếu bản đồ đo vẽ năm 1998 là thửa đất số 34, tờ bản đồ số 08, diện tích 1.086,2m2 (loại đất T) và thửa đất số 35, tờ bản đồ số 08, diện tích 228,6m2 (loại đất T) nên không có căn cứ để xác định thửa đất số 18 theo bản đồ 299/TTg đang tranh chấp là có nguồn gốc do cụ N để lại. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định, thửa đất số 18 là di sản của cụ Đ1 và cụ Nghĩa L2 không có căn cứ pháp luật mà cần phải xác định thửa đất số 18 là di sản của cụ Đ1 để lại.

Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm xác định thửa đất số 18 là di sản của cụ N, có xác định hàng thừa kế của cụ N bao gồm cả với những người được cho là có chung sống với cụ N, có con chung nhưng lại không chia thừa kế cho các thừa kế này là sai lầm nghiêm trọng, không đúng quy định của pháp luật thừa kế.

[2.2] Về hàng thừa kế:

Cụ Võ Thị Đ1, chết năm 1995, trước khi chết cụ Đ1 không để lại di chúc, không có cha mẹ nuôi, con nuôi. Cụ Đ1 có cha đẻ là cố Võ Đ chết năm 1982, có chung sống với cụ Nguyễn N chết năm 1975, có 06 người con là ông Nguyễn C1 (chết năm 1977, không có con), ông Nguyễn T, ông Nguyễn H1 (bị đơn), bà Nguyễn Thị H (nguyên đơn), bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị T1. Cố Võ Đ, cụ Nguyễn N, ông Nguyễn C1 đều chết trước cụ Võ Thị Đ1 cho nên không được nhận thừa kế của cụ Đ1 theo quy định của pháp luật.

Do đó, hàng thừa kế của cụ Võ Thị Đ1 được xác định gồm có 05 thừa kế là ông T, ông H1, bà M, bà H, bà T1. Trong đó, ông H1 được xác định là người con sinh sống, chăm sóc cho cụ Đ1 khi già yếu.

[2.3] Về di sản thừa kế:

Đối với thửa 35, nay là thửa đất số 26, tờ bản đồ số 01 (đo vẽ năm 2016), (viết tắt là thửa 26) hiện bà M đang quản lý, sử dụng; các đương sự không tranh chấp, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Đối với thửa 34 thì thấy, ngày 29/9/2003, hộ ông H1 được cấp GCNQSDĐ thửa 34 có diện tích 1.086,2m2 (trong đó có 300m2 đất ở), đến ngày 25/6/2013 hộ Hoài ông được cấp đổi, cấp lại GCNQSDĐ với diện tích 1.224,7m2, tăng so với diện tích được cấp lần đầu là 138,5m2 do sai lệch giữa đo đạc bằng tay và đo đạc bằng máy, không lấn chiếm, không cơi nới, không tranh chấp của ai, toàn bộ diện tích đất tăng nằm trong khuôn viên của thửa đất; gia đình ông H1 không phải nộp lệ phí trước bạ (bút lục 452, 453, 459). Do đó, có cơ sở xác định diện tích 1.224,7m2 là di sản của cụ Đ1 để lại.

Tại Công văn số 970/CNTPQN ngày 25/3/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (bút lục 479, 480) thể hiện: Ngày 09/8/2016, hộ ông H1 nộp hồ sơ đề nghị xác định lại diện tích đất ở từ đất trồng cây hàng năm khác sang đất ở đô thị là 924,7m2 và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q chỉnh lý tại trang 3 trong GCNQSDĐ.

Như vậy, hiện toàn bộ diện tích thửa 34, nay là thửa 55 đều là đất ở đô thị, ông H1 không phải nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất mà chỉ nộp lệ phí trước bạ.

Quá trình giải quyết vụ án ông H1 không yêu cầu hoàn trả lệ phí trước bạ nên không xét.

Các ông, bà T, M, H1, H, T1 đều thừa nhận vào năm 2021, UBND thành phố Q thu hồi 53,7m2 đất thuộc thửa 34 để thực hiện dự án Khu dân cư B kết hợp chỉnh trang đô thị và được bồi thường, hỗ trợ tổng số tiền 158.120.514 đồng, ông H1 là người nhận khoản tiền này nhưng các ông, bà T, M, H, T1 không tranh chấp nên Hội đồng xét xử ghi nhận số tiền 158.120.514 đồng này là di sản của cụ Đ1 để lại nhưng các đồng thừa kế thống nhất cho ông H1 nên không xét.

Do đó, di sản thừa kế của cụ Đ1 có tranh chấp được xác định là thửa đất số 34, tờ bản đồ số 08 (nay là thửa đất số 55, tờ bản đồ số 01, đo vẽ năm 2016), có diện tích theo đo đạc thực tế 1.179,1m2 (đất ở đô thị) tại phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Kết quả định giá xác định giá đất thị trường là 10.000.000 đồng/m2. [2.4] Xét nội dung tranh chấp:

Ngày 07/7/2003 các ông, bà M, H1, H, T1 (không có ông T) lập Tờ đồng ưng (bút lục 244), trong đó có nội dung:

“…Lúc sinh thời, mẹ chúng tôi đã thừa hưởng của ông bà chúng tôi một mảnh vườn tọa lạc tại Tổ B, K, Phường T, thị xã Q có số hiệu như sau:

Thửa đất số 34, Tờ bản đồ số 8, có giới cận như sau:

– Đông giáp: Khu sinh hoạt phường Trần Hưng Đạo

– Tây giáp: Nhà, đất của bà Nguyễn Thị S và đất của ông Nguyễn H7

– Nam giáp: hẻm nhỏ

– Bắc giáp: Mương thoát nước Bàu Cả

Diện tích chung 1314,8m2

Vào năm 1986, chị chúng tôi là Nguyễn Thị M có chồng, mẹ con chúng tôi đồng ý trích cho chị khoảnh đất để làm nhà ở ổn định từ đó đến nay có diện tích là 228,6m2. Vì chị em chúng tôi đều có gia đình và ở riêng nên chúng tôi đồng ý giao lại mảnh vườn và nhà cửa cho em, anh chúng tôi là Nguyễn H1 cùng vợ là Dương Thị Kim H2 quản lý sử dụng và là nơi thờ tự ông bà cha mẹ chúng tôi.

Chúng tôi đồng thuận giao cho em, anh chúng tôi là Nguyễn H1 cùng vợ là Dương Thị Kim H2 được đăng ký quyền sử dụng đất, sở hữu nhà cũng như chị chúng tôi là Nguyễn Thị M được quyền sở hữu nhà và đất đã phân chia…”.

Xét thấy: như đã phân tích xác định trên về hàng thừa kế của cụ Đ1 được xác định gồm có 05 người là ông T, ông H1, bà M, bà H, bà T1. Ông T là người được hưởng thừa kế di sản của cụ Đ1 theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, Tờ đồng ưng ngày 07/7/2003 thể hiện chỉ bao gồm 04 người là ông H1, bà M, bà H, bà T1 tự ý thỏa thuận mà không có sự đồng ý ký xác nhận của ông T nên việc thỏa thuận này là không đúng theo trình tự thủ tục về việc từ chối nhận di sản quy định tại các Điều 645 Điều 679, 684, 685, 686, 688 của Bộ luật Dân sự năm 1995. Mặt khác, mục đích của thỏa thuận của các thừa kế bà M, bà H, bà T1 là giao cho ông Nguyễn H1 cùng vợ là Dương Thị Kim H2 được đăng ký quyền sử dụng đất để tiện cho quản lý sử dụng và làm nơi thờ tự ông bà cha mẹ chứ không phải là việc tặng cho và phân chia di sản nhưng nội dung thỏa thuận lại cho hộ ông H1, bà H2 được quyền đăng ký quyền sử dụng đất, sở hữu nhà là không đúng quy định của pháp luật. Tuy ông H1, bà M, bà H, bà T1 thừa nhận có ký giấy này, có xác nhận của UBND phường nhưng do có vi phạm nghiêm trọng về nội dung và vi phạm quy định tại Điều 52, Điều 53, Điều 54 Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về công chứng chứng thực. Ngoài ra, xét đối với thỏa thuận của các đương sự trên thì nội dung thỏa thuận phải cho ông H1 được quyền đăng ký quyền sử dụng đất là đại diện các thừa kế của cụ Đ1 thì mới có căn cứ pháp lý để xem xét nội dung của thỏa thuận nhưng ông H1 lại đăng ký quyền sử dụng đất riêng cho chính mình là không đúng; do đó dẫn tới việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông H1, bà H2 là trái pháp luật. Do đó, có căn cứ xác định Tờ đồng ưng ngày 07/7/2003 không phải là tài liệu chứng cứ hợp pháp để chứng minh các bà M, bà H và bà T1 đã từ chối nhận phần di sản của mình. Việc Toà án sơ thẩm sử dụng các tài liệu này để bác bỏ quyền thừa kế của họ là thiếu căn cứ, không đúng theo nguyên tắc đánh giá chứng cứ tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Xét, đối với Biên bản họp gia đình ngày 12/7/2014, ông H1, bà T2 (vợ ông C1), bà M, bà H, bà T1 tiếp tục họp phân chia di sản của cụ Đ1 để lại đối với diện tích 1086,2m2. Như vậy, với sự việc này đã thể hiện rõ về mặt ý chí, việc các bà Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị T1 ký vào văn bản “Tờ đồng ưng” (07/7/2003) không phải là hành vi từ chối nhận di sản hoặc thỏa thuận phân chia di sản mà thực tế, các bà chỉ đồng thuận để ông Nguyễn H1 là người con trai duy nhất còn sinh sống tại địa phương, tạm thời đứng ra quản lý, sử dụng di sản và lo việc thờ cúng cha mẹ, điều này hoàn toàn phù hợp với phong tục, tập quán của gia đình người Việt Nam. Mặt khác, biên bản họp này cũng không có ông T ký xác nhận, nội dung thỏa thuận chưa được thống nhất, không rõ ràng và không được công chứng, chứng thực. Do đó Biên bản họp gia đình ngày 12/7/2014 vi phạm nghiêm trọng về hình thức và nội dung nên cũng không có giá trị pháp lý để làm căn cứ giải quyết việc chia thừa kế.

Căn cứ Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2005 qui định:

“Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.”.

Căn cứ điểm c, khoản 3, Điều 167 Luật đất đai qui định:

“3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:

c) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự”.

Từ những nhận định trên, di sản thừa kế của cụ Đ1 được xác định là thửa đất số 34, tờ bản đồ số 08 (nay là thửa đất số 55, tờ bản đồ số 01, đo vẽ năm 2016), có diện tích theo đo đạc thực tế 1.179,1m2 (đất ở đô thị) tại phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Do cụ Đ1 chết không để lại di chúc nên di sản của cụ Đ1 phải được phân chia cho các thừa kế theo quy định của pháp luật.

[2.5] Về việc xác định công sức chăm sóc, tôn tạo của ông H1, bà H2:

Ông Nguyễn H1 và bà Dương Thị Kim H2 được xác định là người chung sống với cụ Đ1, có công chăm sóc đối với cụ Đ1, là người trực tiếp quản lý, sử dụng, tôn tạo làm tăng giá trị của thửa đất số 34, cùng với việc ông H1 là người đứng ra làm các thủ tục đăng ký kê khai quyền sử dụng đất làm tăng giá trị của thửa đất nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông H1, bà H2 được hưởng công sức chăm sóc, tôn tạo là đúng. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án các thừa kế đã đồng ý cho riêng gia đình ông H1 được nhận số tiền trước đó là số tiền bồi thường, hỗ trợ khi UBND thành phố Q thu hồi 53,7m2 đất nay lại được Tòa án cấp sơ thẩm tiếp tục cho ông H1 nhận thêm diện tích đất bằng 01 kỷ phần thừa kế do có công trông coi, bảo quản di sản của cụ Đ1 về thửa đất 34 là vượt quá 01 kỷ phần nên không phù hợp, ảnh hưởng đến quyền lợi của các thừa kế khác.

[2.6] Xét việc chia di sản thừa kế của cụ Đ1 đối với thửa đất số 34:

Căn cứ vào Điều 660 Bộ luật Dân sự qui định:

“Phân chia di sản theo pháp luật

2. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chi”.

Xét yêu cầu của ông T, bà H, bà T1 thì thấy các ông bà có nguyện vọng được hưởng phần di sản bằng hiện vật để bảo đảm việc thờ cúng ông bà, tổ tiên theo phong tục tập quán; do đó việc phân chia di sản thừa kế cho các thừa kế cần phải ưu tiên việc chia bằng hiện vật. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông T có quốc tịch nước ngoài nên không chia cho ông T bằng hiện vật là không đúng bởi vì tuy ông T là người có quốc tịch nước ngoài nhưng ông T vẫn có quyền tặng cho suất thừa kế của mình cho bà H, bà H là người đủ điều kiện để được chia thừa kế di sản của cụ Đ1 và đủ điều kiện chia thừa kế bằng hiện vật. Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu chia thừa kế thửa đất số 34 cũng như không chia di sản bằng hiện vật cho các thừa kế khác là không đúng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Quá trình giải quyết vụ án ông T có nguyện vọng tặng cho kỷ phần của mình cho bà H; bà M tặng cho kỷ phần của mình cho ông H1 nên việc này được ghi nhận. Do đó, sau khi đã tính chi trả phần công sức đóng góp, bảo quản, tôn tạo di sản cho ông H1, bà H2 thì di sản thừa kế của cụ Đ1 cần được chia làm 05 kỷ phần, trong đó, bà H được xác định nhận 02 kỷ phần, ông H1 được nhận 02 kỷ phần và bà T1 được nhận 01 kỷ phần. Thửa đất số 34 theo hiện trạng đo đạc thực tế có chiều rộng mặt tiền giáp đường nhựa là 29,45m là đường giao thông chính, hiện trạng các tài sản trên đất có căn nhà cũ nát theo trình bày của các đương sự. Căn cứ theo quy định thì thửa đất được hình thành từ việc tách thửa phải đảm bảo điều kiện có cạnh tiếp giáp với đường giao thông thì thấy, thửa đất số 34 có thể thỏa mãn để tách thành 05 thửa đất. Do đó, khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án, chia thừa kế bằng hiện vật thì phải chia thửa đất cho các thừa kế theo hướng có chiều rộng mặt tiền giáp đường giao thông chính để việc sử dụng đất thuận lợi; trừ khi các đương sự thỏa thuận hoặc có nguyện vọng khác.

[3] Từ những nhận định trên, xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định không đúng về di sản thừa kế, đánh giá chứng cứ không đúng dẫn đến việc không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu khởi kiện chia thừa kế di sản của cụ Đ1 cho bà H và các thừa kế khác là ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết phúc thẩm bà H bà T1 kháng cáo yêu cầu chia di sản thừa kế bằng hiện vật, vì cho rằng gia đình ông H1 cản trở việc thắp hương thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên theo tập quán. Các đương sự bà H, bà T1 đều có yêu cầu xem xét thẩm định lại di sản của cụ Đ1 để phân chia; tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm có thay đổi bổ sung kháng cáo và cho rằng có nhiều điểm chưa đảm bảo tính khả thi trong thi hành án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm vì tài sản là ngôi nhà cũ là di sản của cụ Đ1 nằm trên thửa đất 34 (nay là thửa đất số 55, tờ bản đồ số 01, diện tích theo đo đạc thực tế 1.179,1m2) tại phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi chưa được tòa án cấp sơ thẩm làm rõ vị trí, diện tích ngôi nhà và xác định người có quyền sở hữu tài sản để đảm bảo cho việc thi hành án. Hội đồng xét xử xét thấy, việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được. Hội đồng xét xử xét thấy, kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T1 là có căn cứ chấp nhận; do đó chấp nhận quan điểm đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

[4] Đối với nội dung kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn H1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Dương Thị Kim H2 kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm với yêu cầu: xác định thửa 34 là di sản riêng của cụ Đ1; xác định phần kỷ phần của ông T là 506.550.000 đồng là giá trị của 50m2 đất ở và 131m2 đất nông nghiệp. Ông H1 sẽ thanh toán cho ông T khoản tiền này nhưng do bản án sơ thẩm bị hủy nên nội dung này được xem xét khi giải quyết lại vụ án.

[5] Về án phí: Do bản án sơ thẩm bị hủy để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm nên những người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ chịu án phí được xác định lại khi giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

[Nguồn: Bản án số 190/2025/DS-PT ngày 16/5/2025 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 190/2025/DS-PT

………………….

Luật sư FDVN

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường Bình Lợi Trung, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Chung cư Báo Công an nhân dân, 23 đường Nghiêm Xuân Yêm, xã Đại Thanh, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

1421 Nguyễn Tất Thành, phường Quỳnh Mai, Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Trường Vinh Tân, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, phường Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan