Feel free to go with the truth

Trang chủ / Kinh doanh & Thương mại / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án Tranh chấp hợp đồng xây dựng do Tòa phúc thẩm hủy án sơ thẩm không đúng

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án Tranh chấp hợp đồng xây dựng do Tòa phúc thẩm hủy án sơ thẩm không đúng

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Để thi công D án khách sạn Sài Gòn Đ thì Công ty D và Công ty B đã ký 03 Hợp đồng xây lắp gồm: Ngày 18/7/2009, ký Hợp đồng xây lắp số 032 2009 HĐ-SGĐH giao thi ng Gói thầu số 4 (thi công phần thô, kết cấu bê tông cốt thép và kết cấu mái); ngày 23/6/2009, ký Hợp đồng xây lắp số 024 2009 HĐ-SGĐH giao thi công Gói thầu số 5 (xây tô hoàn thiện và nội thất); ngày 13/01/2010, ký Hợp đồng xây lắp số 10/2010/HĐ-SGĐH giao thi ng Gói thầu số 19 (cung cấp và lắp đặt thiết bị đồ gỗ).

Đối với Gói thầu số 4:

[2] Ngày 13/7/2012, hai bên ký Biên bản thanh lý hợp đồng thống nhất quyết toán giá trị thi ng là 31.415.521.000 đồng, đã ứng và nhận thanh toán trước 24.639.048.006 đồng, còn lại 6.776.472.994 đồng, nhưng Công ty D tạm giữ 5% tiền bảo hành tương đương 1.570.776.050 đồng nên sẽ thanh toán 5.205.696.944 đồng sau khi Công ty B xuất hóa VAT. Ngày 16/7/2012, Công ty B xuất hóa đơn và đến khi hết hạn bảo hành nhưng C ng t D phản hồi hưa thanh toán l do C ng 7 ty D có vốn Nhà nước nên yêu cầu Công ty B cung cấp đủ hồ sơ qu ết toán, căn cứ kết quả Kiểm toán Công ty D mới được phép thanh toán cho Công ty B. Ngày 12/7/2013, Công ty B ký Bản cam kết đồng ý “… Nay nhà thầu đã t ng xong v bàn giao công trình cho chủ đầu tư. Đến thời điểm này, hồ sơ Quyểt toán A-B đã được ký đang gởi đơn vị kiểm toán có thẩm quyển để kiểm tóan. Để bảo đảm thủ tục thanh lý hợp đồng và theo yêu cầu của Chủ đầu tư. ng ty cổ phần B đại diện theo pháp luật ông: Đoàn Văn Chiến cam kết: Khi đơn vị kiểm toán có báo cáo kết quả kiểm tóan được sự đồng ý của Công ty chúng tôi, giá trị Quyết toán là giá trị của kiểm toán. + Nếu giá trị kiểm toán giảm Công ty chúng tôi chấp thuận đúng theo quy định của Kiểm toán và hoàn trả lại số tiền mà kiểm toán yêu cầu. + Nếu giá trị kiểm tóan tăng so với quyết toán, đề nghị chủ đầu tư thanh toán số tiền tăng theo yêu cầu của kiểm toán”.

[3] Tại Biên bản làm việc ngày 10/8/2012 (bút lục 1.177) Thanh tra Bộ xây dựng kết luận “Theo báo cáo giải trình của Chủ đầu tư tạ Văn ản số 198/CV-SGĐH Nhà đầu tư tư vấn quản lý dự án chưa tập hợp, bàn giao đầy đủ hồ sơ dự án cho Chủ đầu tư. Đoàn kiểm tra, xác minh yêu cầu Tư vấn quản lý dự án bàn giao đầy đủ hồ sơ dự án cho Chủ đầu tư theo nghĩa hợp đồng đã ký đúng quy định pháp luật, chậm nhất đến ngày 25/8/2012”. Tại Biên bản họp ngày 21/8/2022, đại diện Công ty B cho biết “ hồ sơ quyết toán gói thầu số 04, nhà thầu đã hiệu chỉnh lại hoàn chỉnh o ngày 21/8/2012 để chuyển lại cho Tư vấn quản lý dự án trình chủ đầu tư phê duyệt”. Tại Báo cáo ngày 24/9/2012 (bl 1.197) Công ty D báo cáo Thanh tra Bộ Xây dựng là Chủ đầu tư khi kiểm tra hồ sơ quyết toán phát hiện đơn giá vật liệu không đúng công bố giá hàng tháng của tỉnh Quảng Trị nên đã trả hồ sơ yêu cầu Nhà thầu làm lại để chuyển Tư vấn quản lý dự án kiểm tra xác nhận trước khi trình Chủ đầu tư. Tại Biên bản làm việc ngày 09/8/2013, có đại diện Công ty B, Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn và Kiểm toán UHY ACA (sau đây viết tắt là Công ty Kiểm toán), Liên doanh Biteccont – Nagecco, các bên ghi nhận Công ty B đã bàn giao hồ sơ Gói thầu số 4, nhưng cần cung cấp bổ sung Biên bản nghiệm thu phần khố lượng phát sinh ngoài thầu, Bảng tính chi tiết đơn giá điều chỉnh (bl 1.114). Tại Biên bản họp ngày 25/9/2013 (bl 452) Công ty B yêu cầu Công ty D sớm thanh toán Gói thầu số 4, nhưng Công ty D cho rằng Công ty B hưa ung ấp đủ hồ sơ quyết toán. Sau đó, Công ty D có Công văn số 134 ngày 10/10/2013 mời Công ty B, Tư vấn quản lý D án và Tư vấn giám sát họp để xem xét, cung cấp đủ hồ sơ quyết toán, nhưng Công ty B từ chối họp vì cho rằng Gói thầu số 4 đã thi công xong và đã thanh lý hợp đồng.

[4] Tại Báo cáo kiểm toán số 191/2016/UHY ACA ngày 25/03/2016, Kiểm toán kết luận:“Kết quả kiểm toán chi phí xây dựng gói thầu số 4 là 31.194.942.288 đồng (trong đó phần giá trị đủ cơ sở để Kiểm tóan viên đưa ra ý kiến là 26.702.920.208 phần giá trị không đủ cơ sở để Kiểm tóan viên đưa ra ý kiến là 4.492.022.080 đồng). Phần giá trị không đủ cơ sở để Kiểm toán viên đưa ra ý kiến là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân như: Nhà thầu hoàn thành công trình chậm so với hợp đồng đã ký 360 ngày (tương đương 3.116.724.000 đồng tiền phạt) ; các bên chưa cung ấp hồ sơ, ý kiến cũng như bên liên quan đã hay chưa thực hiện theo các Biên bản làm việc ngày 10/8/2012, ngày 18/7/2012, ngày 15/9/2012 của Thanh tra Bộ xây dựng; Bảng tổng hợp khố lượng nghiệm thu cá đợt thanh toán theo thầu ( chưa bao gồm khố lượng phát sinh) chưa có chữ ký và dấu của đơn vị tư vấn giám sát… (bl 945):

[5] Từ các chứng cứ, tài liệu dẫn chứng từ mục [2] đến [4], Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấ đối với Gói thầu số 4 thì tuy ngày 13/7/2012 hai bên ký Biên bản thanh lý hợp đồng, nhưng ngà 12/7/2013 Công ty B ký Bản cam kết đồng ý lấy kết quả kiểm toán làm căn cứ thanh toán. Do Công ty B không thực hiện ý kiến của Đoàn Thanh tra Bộ Xây dựng tại Biên bản làm việc ngày 10/8/2012, cũng như không cung cấp Biên bản nghiệm thu phần khố lượng phát sinh ngoài thầu, Bảng tính chi tiết đơn giá điều chỉnh… như yêu cầu của Công ty Kiểm toán theo Biên bản làm việc ngày 09/8/2013. Đến nay vụ án này đã trải qua 1 vòng tố tụng (xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm hủy bản án sơ, phúc thẩm để Công ty B cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình) nhưng Công t B không cung cấp được tài liệu hợp pháp chứng minh khối lượng phát sinh ngoài thầu để yêu cầu Công ty D thanh toán; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án để giải quyết là đúng quy định tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự , đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm cũng dành quyền khởi kiện bằng một vụ án khác cho Công ty B đối với Công ty D yêu cầu thanh toán giá trị phần khối lượng Gói thầu số 04 đã thi công mà chưa được thanh toán nếu bổ sung được đầy đủ hồ sơ, thủ tục thanh toán và có kết quả của Kiểm toán là có cơ sở, đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty B. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Tòa án sơ thẩm chưa yêu cầu các đương sự cung cấp đầy đủ chứng cứ để giải quyết mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện được nên hủy bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại là trái với quy định tại Khoản Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự: “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình căn cứ và hợp pháp…”. Về lãi suất, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 42 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của Chính phủ quy định “Bên giao thầu chậm thanh toán thì phải bồi thường cho bên nhận thầu theo lãi suất quá hạn áp dụng cho ngày đầu tiên chậm thanh tóan do Ngân ng thương mại mà bên nhận thầu mở tài khoản công bố kể từ ngày đầu tiên chậm thanh tóan cho đến khi bên giao thầu đã thanh tóan đầy đủ cho bên nhận thầu” nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng mức lãi suất 0,75/tháng theo yêu cầu khởi kiện của Công ty B là phù hợp. Kể từ ngày có kết quả kiểm toán ngà 25/3/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm (08/8/2019) là 40 tháng 4 ngày, nhưng Công ty D chậm thanh toán cho Công ty B số tiền 2.057.872.202 đồng nên Công ty D có nghĩa vụ trả tiền lãi với lãi suất 0,75%/tháng tương ứng với số tiền 624.564.212 đồng. Vì các lý do trên, đối với Gói thầu số 4, Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty D trả Công ty B tổng số tiền 2.682.436.414 đồng, trong đó tiền nợ là 2.057.872.202 đồng và tiền lãi chậm trả là 624.564.2 2 đồng là có cơ sở, đúng pháp luật. Đối với nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm viện lý do Tòa án cấp sơ thẩm chưa giải quyết tiền thuế VAT ghi trên hóa đơn giá trị 31 tỷ đồng mà Công ty B giao cho Công ty D để hủy bản án sơ thẩm là không có cơ sở vì nằm ngoài phạm vi khởi kiện của các đương sự trong vụ án và việc xem xét thuế VAT là trách nhiệm của ơ quan Thuế theo qu định của pháp luật.

Đối với Gói thầu số 5 và Gói thầu số 19:

[6] Công ty D cho rằng Công ty B thi công 02 Gói thầu này chậm tiến độ, ảnh hưởng tiến độ thi công toàn Dự án, đã họp nhiều lần nhưng không khắc phục được, buộc phải thuê Nhà thầu khác có năng lực thi công hoàn thành Dự án; trong khi Công ty B cho rằng lỗi hoàn toàn do Công ty D vì tự ý cắt giảm một số hạng mục và gọi “ồ ạt” Nhà thầu khác vào thi công, dẫn đến khó khăn cho việc xác định khối lượng đã thi công. Xét, Công ty D có lỗi khi chưa tổ chức lập các biên bản hiện trường trước khi gọi Nhà thầu khác vào thi công hoàn thành Dự án, nhưng có việc Công ty B thi công chậm tiến độ, hai bên đã họp nhiều lần nhưng tình trạng không được khắc phục nên trước áp lực tiến độ Dự án, Công ty D không thể dừng Dự án để thanh lý hợp đồng mà gọi Nhà thầu khá có năng lực vào thi công là điều phù hợp với thực tế. Theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của Chính phủ về “Hợp đồng trong hoạt động xây dựng” thì Bên nhận thầu có trách nhiệm lập hồ sơ quyết toán gửi Bên giao thầu. Sau khi gọi Nhà thầu khác vào thi công phần việc còn lại của Gói thầu số 5Gói thầu số 19 thì Công ty D nhiều lần ra Thông báo yêu cầu Công ty B cung cấp chứng từ, tài liệu chứng minh giá trị khối lượng đã thi công chưa được nghiệm thu của Gói thầu số 5 và Gói thầu số 19 nhưng đến nay Công ty B không gửi chứng từ, tài liệu cũng như không phối hợp với Công ty D để giải quyết phần giá trị thi công chưa được nghiệm thu (nếu có).

[7] Xét thấy, mặc dù không lập, gửi hồ sơ quyết toán kèm chứng từ, tài liệu chứng minh phần giá trị khối lượng thi công chưa được nghiệm thu (nếu có) của Gói thầu số 5 Gói thầu số 19 nhưng Công ty B lại cho rằng tổng giá trị khối lượng đã thi công Gói thầu số 5 là 17.168.756.369 đồng, đã xuất 04 hóa đơn VAT số tiền 7. 182.9 5.980 đồng (cụ thể: ngày 25/1/2011 hóa đơn VAT giá trị 1.402.438.403 đồng; ngày 10/10/20 hóa đơn VAT giá trị 1.667.768.70 đồng; ngà 26/5/2011 hóa đơn VAT giá trị 1.993.172.876 đồng và ngày 28/9/2012 hóa đơn VAT giá trị 2.119.536.000 đồng); tổng giá trị khối lượng đã thi công Gói thầu số 19 là 9. 36.000.000 đồng, nên không có cơ sở để xem xét phần giá trị thi công chưa được nghiệm thu (nếu có) của Gói thầu số 5Gói thầu số 19 như yêu cầu của Công ty B. Xét với Gói thầu số 5: Giá trị hợp đồng hai bên ký kết là 24.359.099.000 đồng, Công ty D chỉ công nhận giá trị thi công đã được hai bên nghiệm thu, xuất hóa đơn VAT là 7.242.9 5.980 đồng, Công ty D đã cho Công ty B tạm ứng và thanh toán trước tổng số tiền 4.096.502.562 đồng nên Tòa án nhân dân thành phố Đ buộc Công ty B hoàn trả Công ty D 6.803.586.582 đồng là có cơ sở. Xét đối với Gói thầu số 19: Giá trị hợp đồng hai bên ký kết là 9.136.000.000 đồng, Công ty D chỉ công nhận giá trị thi công đã được hai bên nghiệm thu, xuất hóa đơn VAT là 7.242.9 5.980 đồng, Công ty D đã cho Công ty B tạm ứng và thanh toán trước tổng số tiền 8.970.347.188 đồng nên Tòa án nhân dân thành phố Đ buộc Công ty B hoàn trả Công ty D 2.354.855.988 đồng là có cơ sở. Về tiền lãi: Ngàv 20/7/2015, Công ty D có Đơn phản tố yêu cầu Công ty B trả số tiền tạm ứng và thanh toán trước vượt khối lượng nên Tòa án nhân dân thành phố Đ áp dụng Điều 305 Bộ luật dân sự 2005 quy định về lãi suất chậm trả và căn cứ Thông báo số 494/QTR-TH ngày 22/7/2019 của Thống đố Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh Quảng Trị để buộc Công ty B trả Công ty D lãi chậm trả số tiền 13.358.779.427 đồng là có cơ sở, đúng pháp luật. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị (cấp phúc thẩm) cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xác minh, thu thập chứng cứ hưa đầ đủ [Gói thầu số 5 có nhiều hạng mục thi công dở dang hưa được nghiệm thu, giá trị khối lượng xây lắp tạm tính đợt 3: 2.119.536.000 đồng của hạng mục nào chưa được làm rõ; Gói thầu số 19 có nhiều thiết bị đồ gỗ, hàng rời của Công ty B được tiếp nhận sau khi ký Biên bản nghiệm thu cuối cùng ngày 5/8/2011 để lẫn lộn với hàng của Công ty D chưa được xem xét] mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể bổ sung được nên hủy bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại là không đúng quy định tại Khoản Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự: “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình căn cứ và hợp pháp…” và trong khi Công ty D nhiều lần ra Thông báo yêu cầu Công ty B cung cấp toàn bộ chứng từ, tài liệu chứng minh giá trị khối lượng đã thi công của Gói thầu số 5Gói thầu số 19 nhưng Công ty B không gửi hồ sơ quyết toán cũng như không phối hợp với Công ty D quyết toán và hơn nữa, vụ án đã trải qua xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, sau đó cấp giám đốc thẩm hủy cả Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm giải quyết lại nhưng Công ty B không xuất trình chứng từ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Từ các tài liệu, chứng cứ dẫn chứng và phân tích tại các mục nêu trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấy Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 05/2021/KN-KDTM ngày 25/6/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm thẩm hủy toàn bộ bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 05/2020/KDTM-PT ngày 20/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2019/KDTM-ST ngày 14/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ là có cơ sở nên chấp nhận. Sau khi xét xử sơ thẩm, Công ty B kháng cáo bản án sơ thẩm, cấp giám đốc thẩm hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm nên Công ty B phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm là 2.000.000 đồng theo quy định tại khoản 6 Điều 18 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và điểm 2.2 phần án phí dân sự phúc thẩm trong danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

[Nguồn: Quyết định GĐT số 20/2021/GĐT-KDTM  Ngày 30/9/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định GĐT: Số 20/2021/GĐT-KDTM

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng:

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế:

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan