Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hành chính / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm vì tòa án không có thẩm quyền buộc UBND bố trí đất tái định cư

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm vì tòa án không có thẩm quyền buộc UBND bố trí đất tái định cư

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về phần thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện, có đơn xin xét xử vắng mặt, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt các đương sự nói trên. Xét việc vắng mặt của các đương sự không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Xét nội dung kháng cáo của Ủy ban nhân dân thành phố B thì thấy:

Bà Bùi Thị H có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 06 (nay là thửa đất số 32, tờ bản đồ số 59-1), diện tích 1.160,7m2, trong đó có 300m2 đất ở tại xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, đã được Ủy ban nhân dân thành phố B, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình bà Bùi Thị H vào ngày 30/8/2013; Bà Bùi Thị R có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 130, tờ bản đồ số 07 (nay là thửa đất số 108, tờ bản đồ số 59), diện tích 69,9m2, trong đó có 62m2 là đất ở tại xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; đã được Ủy ban nhân dân thành phố B, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình bà Bùi Thị R vào ngày 09/6/2010.

Ngày 12/11/2021, Ủy ban nhân dân thành phố B, ban hành Quyết định số: 7985/QĐ-UBND và Quyết định số: 8296/QĐ-UBND, thu hồi toàn bộ thửa đất số 32 của gia đình bà H và thu hồi toàn bộ thửa đất số 108 của gia đình bà R, để thực hiện dự án đường Đ, xã H, thành phố B. Hộ gia đình bà H và hộ gia đình bà R, bị thu hồi hết đất ở và không còn đất ở, nhà ở nào khác trên địa bàn xã H, thành phố B, nên đủ điều kiện được bồi thường bằng đất ở, được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 79 Luật Đất đai năm 2013. Đồng thời giao cho bà Bùi Thị H 02 lô đất tái định cư theo các quyết định số 5748 /QĐ-UBND ngày 06/6/2022 và 7471/QĐ-UBND ngày 26/8/2022, mỗi lô đất tái định cư có diện tích 144m2, giao cho bà Bùi Thị R 01 lô đất tái định cư có diện tích 120m2 theo quyết định giao đất số 5767 /QĐ-UBND ngày 06/6/2022.

UBND thành phố B cho rằng việc bố trí đất tái định cư như trên là đúng quy định của pháp luật nên không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm.

Nhận định của tòa án cấp sơ thẩm cho rằng:

1.Ủy ban nhân dân thành phố B, căn cứ khoản 1 Điều 1 Quyết định số: 27/2019/QĐ-UBND ngày 19/12/2019 để giao cho hộ gia đình bà H 02 thửa đất tái định cư, là trái với quy định của pháp luật. Bởi lẽ, ngày 15/3/2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Đ đã ban hành Quyết định số: 14/2022/QĐ-UBND quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; Quyết định này, có hiệu lực thi hành từ ngày 25/3/2022 và thay thế Quyết định số: 39/2014/QĐ-UBND ngày 10/11/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đ, thay thế Điều 1 Quyết định số: 27/2019/QĐ-UBND ngày 19/12/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đ; nên kể từ ngày 25/3/2022, Ủy ban nhân dân thành phố B, phải căn cứ Quyết định số: 14/2022/QĐ-UBND để xem xét, giải quyết việc giao đất tái định cư, cho người dân có đất bị thu hồi trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

2.Trước khi bị thu hồi đất, vợ chồng bà H, ông P cùng với các con của mình là vợ chồng bà T2, ông T3; vợ chồng ông V, bà N cùng chung sống trên thửa đất số 32. Vợ chồng bà R, ông H cùng với các con của mình là vợ chồng bà L, ông H3; vợ chồng ông O, bà V1 cùng chung sống trên thửa đất số 108; Các cặp vợ chồng bà T2, ông T3; ông V, bà N; bà L, ông H3; ông O, bà V1 đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng, theo quy định của pháp luật về cư trú.

[3] Căn cứ khoản 2 Điều 6 Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ và khoản 2 Điều 4 Quyết định số: 14/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đ, thì hộ gia đình bà H và hộ gia đình bà R được giao 03 thửa đất tái định cư. Bởi lẽ, khoản 2 Điều 6 Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP quy định: Trường hợp trong hộ gia đình quy định tại khoản 1 Điều này, mà trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở thu hồi, nếu đủ điều kiện tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một thửa đất ở thu hồi, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất ở, nhà ở tái định cư và tình hình thực tế tại địa phương, quyết định mức đất ở, nhà ở tái định cư cho từng hộ gia đình.

Khoản 2 Điều 4 Quyết định số: 14/QĐ-UBND quy định: Trường hợp trong hộ gia đình quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, mà trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở thu hồi, nếu đủ điều kiện tách thành từng hộ gia đình riêng, theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một thửa đất ở thu hồi, nếu số thửa được giao tái định cư, không đủ bố trí cho từng hộ gia đình, thì giao cho Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện) căn cứ vào quỹ đất ở, để quyết định giao đất tái định cư cho từng hộ. Thửa đất giao thêm là thửa đất có diện tích nhỏ nhất trong khu tái định cư.

Từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị H, bà Bùi Thị R. Tuyên bố hành vi của Ủy ban nhân dân thành phố B, không giao thêm đất tái định cư cho hộ gia đình bà Bùi Thị H, bà Bùi Thị R là trái pháp luật; Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B, phải ban hành Quyết định giao thêm cho hộ gia đình bà R 02 thửa đất tái định cư, giao thêm cho hộ gia đình bà H 01 thửa đất tái định cư, theo quy định của pháp luật, theo giá đất được quy định tại Quyết định số: 5501/QĐ-UBND ngày 26/5/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đ (do Ủy ban nhân dân tỉnh Đ, ủy quyền cho Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành).

* Những sai sót của tòa án cấp sơ thẩm:

– Xác định đối tượng khởi kiện là hành vi hành chính, để từ đó buộc U phải ban hành quyết định giao thêm đất tái định cư cho hộ bà H, bà R là không đúng. Trong trường hợp này, nếu cấp sơ thẩm cho rằng việc bố trí đất tái định cư cho bà H , bà R khi thu hồi đất là không đúng quy định của pháp luật đất đai và quy định của UBND tỉnh Đ khi thực hiện thu hồi đất và bố trí đất tái định cư trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thì tuyên hủy 1 phần Quyết định số 5737/QĐ-UBND ngày 6/6/2022 của UBND thành phố B về phê duyệt phương án tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng công trình đường Đ, TP . đối với nhiều hộ trong đó có hộ bà Bùi Thị H và Bùi Thị R và hủy toàn bộ các Quyết định số 5748/QĐ-UBND ngày 06/6/2022 và 7471/QĐ-UBND ngày 26/8/2022, giao cho bà Bùi Thị R 01 lô đất tái định cư theo quyết định giao đất số 5767/QĐ-UBND ngày 06/6/2022 để U ban hành các quyết định mới giao đất tái định cư cho các hộ bà H, Bà R theo đúng quy định của pháp luật.

– Hộ bà Bùi Thị H có diện tích đất bị thu hồi là 1.160,7m2, trong đó có 300m2 đất ở, được bố trí 02 lô đất tái định cư, Hộ bà Bùi Thị R bị thu hồi 69,9m2 ( trong đó có 62m2 đất ở và 7,9m2 đất trồng cây lâu năm chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) và đã được bố trí 01 lô đất tái định cư có diện tích 120m2 đất ở là đã vượt quá diện tích đất bị thu hồi nhưng tòa án cấp sơ thẩm nhận định và buộc UBND thành phố B phải ban hành quyết định bố trí thêm 02 lô đất tái định cư cho bà R, thêm 01 lô đất tái định cư cho bà H là không đúng thẩm quyền, đó là thẩm quyền của UBND thành phố B. Tòa án cấp sơ thẩm cần xem xét tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính chứ không thể làm thay thẩm quyền của Ủy ban.

Do đó, HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của UBND thành phố B, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử lại theo đúng quy định.

[4]. Về án phí: Do hủy bản án sơ thẩm nên người kháng cáo UBND thành phố B không phải chịu án phí phúc thẩm, nghĩa vụ nộp án phí được xác định lại khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

[Nguồn: Bản án 334/2024/HC-PT ngày 27/8/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 334/2024/HC-PT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan