Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm vì tòa sơ thẩm tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng nhưng không giải quyết hậu quả khi cả hai bên có cam kết về việc bồi thường

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm vì tòa sơ thẩm tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng nhưng không giải quyết hậu quả khi cả hai bên có cam kết về việc bồi thường

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1]. Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Diện tích 3.759m2 đất tranh chấp được Ủy ban nhân huyện ĐH, tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 07/9/2000 cho hộ gia đình bà Trần Thị R. Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hộ bà R gồm có bà R và ông Lê Văn X. Chồng bà R là ông Lê Văn M1 đã chết năm 1983 trước thời điểm Nhà nước cấp quyền sử dụng đất nên đây là tài sản của bà R và ông X. Bà R, ông X có quyền định đoạt quyền sử dụng thửa đất trên theo quy định tại Điều 167 Luật Đất đai năm 2013. Ngày 24/5/2007 bà R, ông X lập“Giấy mua bán đất và quyền sử dụng đất” được Phó trưởng ấp LB là ông Hà Văn K xác nhận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên cho bà Phạm Ngọc N với giá 150.000.000đ, bà N đã thanh toán tiền và nhận đất để sử dụng, xây dựng nhà ở từ năm 2007, ông T1 không có ý kiến hay tranh chấp gì. Do có nhu cầu làm thủ tục sang tên nên ngày 17/6/2016, bà R, ông X mới ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên cho bà N tại Văn phòng công chứng PCT (nay đổi tên thành Văn Phòng công chứng LNM), thời điểm này không có tài liệu nào thể hiện việc bà R, ông X bị mất năng lực hành vi dân sự, trong khi đó, theo Công văn số 4214/STNMT[1]VPĐKĐĐ ngày 19/11/2018 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An thì hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà N là đúng trình tự, thủ tục theo quy định nên việc chuyển nhượng nêu trên là hợp pháp. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định đây là tài sản chung của bà R và ông M, việc bà R tự ý chuyển nhượng trong khi không được hàng thừa kế thứ nhất của ông M đồng ý là không đúng để tuyên hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu là không có căn cứ.

[2]. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết ngày 21/01/2002 giữa bà Trần Thị R với ông Lê Văn T1 tại Ủy ban nhân dân xã LG, huyện ĐH, tỉnh Long An thì thấy rằng, quyền sử dụng đất là của hộ bà R gồm bà R và ông X nhưng chỉ có bà R đứng tên giao dịch là không đúng quy định. Hơn nữa, tại “Giấy cam kết” lập ngày 24/10/2016 có chứng thực của UBND xã LG thì bà R, ông X đã khẳng định “Vào ngày 27/5/2007 tôi có đồng ý bán diện tích đất nói trên cho cháu Phạm Ngọc N… trước và sau khi bán diện tích đất nói trên. Tôi: Trần Thị R cam kết không cho tặng, sang nhượng cho bất cứ ai. Các con tôi có phần chia rồi…Riêng phần của con tôi Lê Văn T1 cũng đã chia phần đất gò rồi… T1 cũng không có liên quan gì đến phần đất bưng (ruộng) diện tích nói trên… ”. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết ngày 21/01/2002 giữa bà R với ông T1 trong khi chưa thu thập tài liệu, chứng cứ về việc chứng thực hợp đồng để xác định tính hợp pháp của hợp đồng, chưa xác minh giá chuyển nhượng 7.000.000đ thể hiện trong hợp đồng có phù hợp với giá trị thị trường năm 2002 hay không? Vì sao ông T1 đã nhận chuyển nhượng từ năm 2002 nhưng không tranh chấp gì đối với việc sử dụng đất của bà N là còn thiếu sót

[3]. Ngoài ra, khi tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà R với bà N, Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu trong khi bà N đã thanh toán cho bà R 150.000.000đ và bà R cam kết tại ‘‘Giấy mua bán đất và quyền sử dụng đất” lập ngày 24/5/2007 là đất thuộc chủ quyền của bà R và sẽ bồi thường cho bà N gấp 10 lần giá trị chuyển nhượng nếu có tranh chấp là giải quyết không triệt để, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà N.

[Nguồn: Quyết định GĐT số 163/2022/DS-GĐT ngày 16/5/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số: 163/2022/DS-GĐT

…………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan