NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
[1] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Vũ Thị Thu H, ông Vũ Thành Đ, ông Vũ Thái N, bà Vũ Thị Phương L, ông Vũ Ngọc G1 và bị đơn bà Trần Thị Tú L1, ông Trần Thiên Đ1, ông Tiêu Công K, bà Đào Thị M; thấy:
[1.1] Về hàng thừa kế: các đương sự đều khai thống nhất về diện thừa kế và hàng thừa kế di sản của ông Vũ Ngọc N1 (chết ngày 07/10/2020) gồm: bà Trần Thị Tú L1 (vợ ông N1), bà Vũ Thị Thu H, ông Vũ Thành Đ, ông Vũ Thái N, bà Vũ Thị Phương L và ông Vũ Ngọc G1 (là các con của ông N1).
[1.2] Về di sản thừa kế: nguồn gốc thửa đất số 179, tờ bản đồ số 34, diện tích 2400m2 , mục đích sử dụng đất khu dân cư và thửa đất số 178, tờ bản đồ số 34, diện tích 2400m2 , mục đích sử dụng đất ao, được UBND thành phố B cấp Giấy CNQSDĐ ngày 23/11/1995 cho hộ bà Trương Thị T1. Ngày 14/6/1999, bà Trương Thị T1, ông Nguyễn Phi H2 chuyển nhượng 02 thửa đất trên cho ông Vũ Ngọc N1, tại Bản án số 126/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 “V/v yêu cầu tiếp tục thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã có hiệu lực pháp luật, công nhận 02 quyền sử dụng đất trên thuộc quyền sở hữu của ông Vũ Ngọc N1; ngày 05/11/2020 ông N1 đã đăng ký biến động chuyển quyền sử dụng đất theo bản án của Toà án đối với 02 thửa đất nêu trên.
[1.3] Về các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất:
[1.3.1] Ông Vũ Ngọc N1 đã lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/4/2020, 28/4/2020 và ngày 03/5/2020 giữa bên chuyển nhượng là ông Vũ Ngọc N1, bà Trần Thị Tú L1 và bên nhận chuyển nhượng là ông Trần Thiên Đ1. Ngày 22/4/2020, ông Vũ Ngọc N1 chuyển nhượng cho ông Trần Thiên Đ1 một phần thửa đất số 179, chiều ngang 12m, chiều dài khoảng 25m với giá tiền là 200.000.000 đồng và dẻo đất còn lại ra đến ao là 100.000.000 đồng, giữa hai bên có lập giấy mua bán đất bằng tay, ông N1 và bà L1 đã nhận đủ tiền chuyển nhượng từ ông Đ1 và bàn giao toàn bộ diện tích đất cho ông Đ1. Ngoài ra, trong Giấy chuyển nhượng ngày 03/5/2020 ông N1 còn chuyển nhượng cho ông Trần Thiên Đ1 một phần một phần diện tích đất ao với giá 150.000.000 đồng, ông N1 đã nhận 125.000.000 đồng. Sau khi nhận chuyển nhượng ông Đ1 đã quản lý sử dụng đất thực tế là 498m2 và xây nhà, hàng rào cố định quanh đất nên cần công nhận hợp đồng; đối với diện tích ao ông Đ1 đã quản lý sử dụng và đang nuôi trồng thủy sản là một phần trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà các bên tham gia đã thực hiện nghĩa vụ, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên vô hiệu đối với một phần hợp đồng diện tích ao, buộc các đồng thừa kế phải hoàn trả tiền cho ông Đ1 số tiền ông N1 đã nhận nhưng không xem xét về công sức cải tạo diện tích ao và tài sản có trong ao là thủy sản đang nuôi trồng của ông Đ1 đang tồn tại là thiếu sót và ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Đ1.
[1.3.2] Đối với Giấy giao nhận tiền đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 18/6/2020 giữa ông Vũ Ngọc N1, bà Trần Thị Tú L1 và ông Tiêu Công K, bà Đào Thị M:
Quá trình giải quyết vụ án, đại diện bị đơn ông Tiêu Công K, bà Đào Thị M cho rằng hai bên đã lập hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng 01 thửa đất có diện tích khoảng 125m2 (ngang 5m, dài khoảng 25m) thuộc thửa đất số 179, có vị trí tứ cận: phía Đông giáp đường liên xã Đ tưởng niệm; phía Tây giáp đất nhà T3, T4; phía Nam giáp với đất ông Trần Thiên Đ1; phía Bắc giáp với đất ông N1. Phía sau hết đất cả ao là 5m, trong đó đất thổ cư 60m2 . Giá trị chuyển nhượng là 150.000.000 đồng. Ông K, bà M đã đặt cọc số tiền 30 triệu đồng, sau đó đã trả thêm số tiền 110 triệu đồng, tổng cộng 140.000.000 đồng, còn lại 10.000.000 đồng hẹn khi hoàn tất giấy tờ sẽ giao hết, bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã chuyển giao hơn 2/3 số tiền trong hợp đồng chuyển nhượng đất và đã nhận đất trên thực tế, cấp sơ thẩm đã tuyên hợp đồng này vô hiệu và xác định 140 triệu là tiền đặt cọc là không đúng; mặt khác khi tuyên vô hiệu nhưng không xác định thiệt hại để giải quyết là thiếu sót và ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Tiêu Công K và bà Đào Thị M.
[1.4] Xét kháng cáo của bà Trần Thị Tú L1, thấy: khi ông N1 mất (07/10/2020), bà L1 là người quản lý toàn bộ di sản thừa kế của ông N1, quá trình sử dụng bà khai nại có cải tạo đất, nộp thuế đất, khi chia di sản thừa kế cấp sơ thẩm không xem xét công sức quản lý, duy trì di sản đối với bà L1 là chưa phù hợp quy định pháp luật.
[1.5] Về việc xác định giá trị di sản: giá trị tài sản thừa kế được định giá hơn 11 tỷ đồng, tại phiên tòa sơ thẩm, mặc dù phía bị đơn chưa có ý kiến nhưng Hội đồng xét xử sơ thẩm đã ghi nhận xác định giá trị tài sản chỉ còn 4,8 tỷ đồng và chia thừa kế trên giá trị này là không đúng pháp luật.
[1.6] Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được những sai sót trên của Tòa án sơ thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Vũ Thị Thu H, ông Vũ Thành Đ, ông Vũ Thái N, bà Vũ Thị Phương L, ông Vũ Ngọc G1 và bị đơn bà Trần Thị Tú L1, ông Trần Thiên Đ1, ông Tiêu Công K và bà Đào Thị M; hủy toàn bộ bản án sơ thẩm giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật, theo quy định tại khoản 3 Điều 308 BLTTDS.
[2] Do hủy toàn bộ bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử không xem xét yêu cầu kháng cáo của các đương sự.
[3] Về án phí: những người kháng cáo là nguyên đơn bà Vũ Thị Thu H, ông Vũ Thành Đ, ông Vũ Thái N, bà Vũ Thị Phương L, ông Vũ Ngọc G1 và bị đơn bà Trần Thị Tú L1, ông Trần Thiên Đ1, ông Tiêu Công K, bà Đào Thị M không phải chịu án phí phúc thẩm, hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho của nguyên đơn bà Vũ Thị Thu H, ông Vũ Thành Đ, ông Vũ Thái N, bà Vũ Thị Phương L, ông Vũ Ngọc G1 và bị đơn bà Trần Thị Tú L1, ông Trần Thiên Đ1, ông Tiêu Công K, bà Đào Thị M.
[Nguồn: Bản án số: 113/2024/DS-PT ngày 17/4/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 113/2024/DS-PT
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn