Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm vì lấy mốc thời gian từ ngày BLHS 2015 có hiệu lực để khởi tố, truy tố và xét xử là không đúng bởi tội “sản xuất, buôn bán hàng giả” không phải là tội phạm mới theo NQ 41/20117 ngày 20/6/2017 nên có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội năm 2016, 2017.

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm vì lấy mốc thời gian từ ngày BLHS 2015 có hiệu lực để khởi tố, truy tố và xét xử là không đúng bởi tội “sản xuất, buôn bán hàng giả” không phải là tội phạm mới theo NQ 41/20117 ngày 20/6/2017 nên có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội năm 2016, 2017.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Xét đơn kháng cáo của bị cáo, Công ty TNHH một thành viên Dầu khí Thành phố H phù hợp với quy định tại các Điều 331, Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên được thụ lý, xét xử theo trình tự thủ tục phúc thẩm.

Đối với kháng cáo của Công ty TNHH T11 và Công ty TNHH D, căn cứ vào quyền kháng cáo được quy định tại điều 63, 65, 331 Bộ luật Tố tụng hình sự thì chỉ có quyền kháng cáo phần bồi thường thiệt hại, phần liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên, do 02 Công ty nêu trên có kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại; mặt khác, căn cứ Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án có thể xem xét đối với các phần khác khi xét thấy cần thiết không bị kháng cáo, kháng nghị. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận để xem xét nội dung kháng cáo của 02 Công ty theo trình tự, thủ tục phúc thẩm là đúng quy định.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo, nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

[2.1] Về tố tụng:

Bị cáo T10 kháng cáo cho rằng không đồng ý đưa Công ty TNHH D tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Các Công ty TNHH T11, Công ty TNHH một thành viên Dầu khí Thành phố H, Công ty TNHH D kháng cáo đề nghị đổi tư cách tố tụng sang bị hại.

Xét thấy mặc dù trong biên bản phạm tội quả tang không thể hiện có sản phẩm gas của Công ty TNHH D. Tuy nhiên, tại 59 cuốn sổ là vật chứng của vụ án được thu giữ tại Doanh nghiệp G thể hiện có ghi nhãn hàng của Công ty TNHH D, cụ thể như cuốn số 02, 13, 42, 43…).Vì vậy, cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã đưa Công ty TNHH D tham gia tố tụng là phù hợp.

Do khách thể của tội “sản xuất, buôn bán hàng giả” xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dùng nên cấp sơ thẩm xác định tư cách của Công ty TNHH T11 là nguyên đơn dân sự và Công ty TNHH Một thành viên Dầu khí Thành phố H, Công ty TNHH D là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là có căn cứ theo quy định tại Điều 63, 65 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2.2] Đối với kháng cáo về nội dung của vụ án:

Bị cáo đề nghị xem xét chuyển tội danh từ tội “sản xuất, buôn bán hàng giả” sang  tội danh “xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” thấy rằng bị cáo T10 thừa nhận bắt đầu từ 01/01/2016, Doanh nghiệp G ký Hợp đồng mua bán khí dầu hóa lỏng với Công ty cổ phần G. Theo điều khoản quy định trong hợp đồng đại lý tiêu thụ khí dầu mỏ hóa lỏng – LPG giữa Công ty cổ phần G-Gas với Doanh nghiệp G và Biên bản thỏa thuận được ký kết hàng năm giữa hai bên chỉ cho phép Doanh nghiệp Chín Thảo được chiết nạp LPG vào các vỏ bình gas mang nhãn hiệu V- GAS, PM-GAS, PICNIC-GAS của Công ty cổ phần G-Gas và bao tiêu, phân phối các sản phẩm này. Ngoài ra, Doanh nghiệp G không ký hợp đồng mua bán khí dầu mỏ hóa lỏng với một doanh nghiệp gas đầu mối nào khác. Tuy nhiên, từ năm 2016 đến ngày 07/12/2018, bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi chỉ đạo, điều hành người thân và nhân viên làm thuê chiết nạp gas từ bồn khí V-Gas vào bình gas nhãn hiệu khác V-Gas (có giá cao hơn V-Gas) mà doanh nghiệp không có ký hợp đồng như: TTAGas, E gas, Shell gas, T6, SaigonPetro (SP), O, Gia đình gas, MT gas… rồi chụp niêm màng co, tem chống giả vào bình bán lại cho khách hàng nhằm mục đích thu lợi bất chính. Trong đó, tính từ ngày 01/01/2018 đến ngày 07/12/2018, số lượng hàng giả tương đương với số lượng hàng thật trị giá là 15.135.405.002 đồng, tổng số tiền thu lợi bất chính là 592.680.397 đồng.

Với hành vi sử dụng nhãn hiệu, bao bì (vỏ bình) có thật của các Công ty khác để chiết nạp khí gas của Công ty G–gas vào mục đích giả mạo hàng hóa của công ty sản xuất khác, giả mạo về nguồn gốc của sản phẩm được quy định tại khoản 7 Điều 3 Nghị định 98 của Chính phủ quy định về hàng giả. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn T về tội “sản xuất, buôn bán hàng giả” với 02 tình tiết định khung theo điểm a, b khoản 3 Điều 192 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

Luật sư bào chữa cho rằng bị cáo sử dụng ga thật nhưng chỉ giả nhãn mác nên cấu thành tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”. Xét thấy tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” được quy định tại Điều 226 của Bộ luật Hình sự là hành vi cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý. Trong khi hành vi xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu theo Điều 129 của Luật sở hữu trí tuệ quy định là hành vi sử dụng nhãn hiệu có dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa gây nhầm lẫn hoặc khó phân biệt của người tiêu dùng. Bị cáo T không sử dụng nhãn hiệu có dấu hiệu trùng hoặc tương tự với các nhãn hiệu được bảo hộ của các tổ chức khác nên đối tượng không phải xâm phạm về nhãn hiệu. Vì vậy không thống nhất với Luật sư bào chữa về đề nghị chuyển tội danh cho bị cáo.

[2.3] Xét kháng cáo của Công ty TNHH T11, Công ty TNHH D về dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và bỏ lọt hành vi phạm tội vào thời gian từ năm 2016, năm 2017, Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai tại phiên tòa phúc thẩm xác định bà M là người trực tiếp tham gia vào điều hành, quản lý Doanh nghiệp Chín Thảo từ khi doanh nghiệp được thành lập, bà M cùng với bà T4 là người trực tiếp ghi chép, theo dõi sổ sách mua bán sản phẩm gas, điều hành quản lý nhân viên sang chiết nạp gas, trực tiếp nhận đơn đặt hàng. Ngoài ra, một số khách hàng mua sản phẩm khác nhãn hiệu V-Gas có khai do bà M là người trực tiếp đi chào hàng hoặc khách hàng điện hỏi mua sản phẩm ngoài nhãn hiệu V-Gas đầu tiên là từ bà M (BL, 491, 598, 623). Tại phiên tòa phúc thẩm, bà M thừa nhận lợi nhuận thu được từ Doanh nghiệp G do bà quản lý. Đối với bà T4 ngoài vai trò cùng với bà M là người trực tiếp quản lý sổ sách hàng hóa, điều hành quản lý nhân viên chiết nạp gas và nhận đơn hàng thì bà T4 cũng chính là người mua niêm màng co và tem giả. Ngoài ra, Doanh nghiệp Chín Thảo vào năm 2015 đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh K xử phạt vi phạm hành chính về hành vi mua bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu H – gas và buộc phải ngừng sản xuất kinh doanh thời hạn 01 tháng. Ngay sau đó, Đoàn kiểm tra liên ngành – Ban chỉ đạo 389 của tỉnh Hậu Giang cũng đã tiến hành kiểm tra, xác minh tại Doanh nghiệp C. Đến năm 2017, Công ty TNHH T11 đã khiếu nại Doanh nghiệp ga C về hành vi sản xuất, buôn bán gas giả đến Công an thành phố V. Trong công văn phúc đáp của Công an thành phố V cho rằng Công an đã tiến hành xác minh nhưng chưa thấy có dấu hiệu vi phạm. Như vậy từ năm 2015, cơ quan có thẩm quyền đã tiến hành kiểm tra, xác minh tại Doanh nghiệp C trong đó có nội dung có hay không hành vi sản xuất, buôn bán gas giả (chiết nạp đúng nhãn hiệu, thương hiệu) nên việc bà M, bà T4 cho rằng không biết việc sang triết gas từ khí ga của Công ty G-Gas vào nhãn hiệu của Công ty khác là trái pháp luật là không thuyết phục. Từ đó cho thấy bà M và bà T4 có dấu hiệu đồng phạm trong vụ án.

Bên cạnh đó, quá trình điều tra đã chứng minh được hành vi phạm tội “sản xuất, buôn bán hàng giả” do bị cáo Nguyễn Văn T thực hiện trong thời gian từ ngày 01/01/2016 đến ngày 07/12/2018 với giá trị hàng giả theo Kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự là 24.299.643.500 đồng nhưng cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm chỉ lấy mốc thời gian phạm tội từ ngày 01/01/2018 đến ngày 07/12/2018 để khởi tố, truy tố và xét xử vì cho rằng từ ngày 01/01/2018 Bộ luật Hình sự  năm 2015 mới có hiệu lực pháp luật là không đúng bởi tội “sản xuất, buôn bán hàng giả” không phải là tội phạm mới theo hướng dẫn tại Nghị Quyết số 41/20117 ngày 20/6/2017 của Quốc hội nên có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội trong thời gian năm 2016, 2017.

[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Với dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, áp dụng pháp luật không đúng dẫn đến có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội của bị cáo từ thời gian năm 2016 và 2017 nên không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH T11, Công ty TNHH D, hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang điều tra, giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

[4] Do vụ án bị hủy để điều tra lại nên trong quá trình giải quyết lại vụ án cần tiếp tục điều tra làm rõ các vấn đề:

Xem xét việc trả lại dàn máy, thiết bị dùng để san triết gas cho ông N1 theo Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số 03 ngày 20/01/2020 bởi vì đây là phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và quá trình điều tra xác định được ông N1 chỉ đứng tên giùm Doanh nghiệp cho bị cáo. Toàn bộ máy móc, thiết bị, tài sản tại Doanh nghiệp G là của bị cáo không phải của ông N1.

Ngoài ra, cần làm rõ có hay không vai trò đồng phạm của những người có liên quan khác và cần xem xét giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án (chỉ được tách theo quy định của pháp luật) để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được công bằng, khách quan, chính xác và toàn diện.

[Nguồn: Bản án số 01/2024/HS-PT của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 01/2024/HS-PT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan