NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] REE khởi kiện yêu cầu BUCG và HVTS phải liên đới thanh toán toàn bộ số tiền còn nợ theo Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 với số tiền là 7.436.160.000 đồng (tương đương với 317.988,47 USD), tiền lãi (từ ngày 15/01/2010 đến ngày 18/10/2018) là 8.391.734.000 đồng; tổng cộng là 15.827.894.000 đồng; yêu cầu HVTS phải thanh toán toàn bộ số tiền này cho REE dựa trên Điều 16.7 của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 – phần II Điều kiện cụ thể của Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 và Thông báo chung ngày 12/12/2009 giữa HVTS và BUCG.
[2] Xét Thông báo chung ngày 12/12/2009 giữa HVTS và BUCG, thấy rằng: Nội dung của thông báo chung này chỉ đề cập đến quyền của HVTS là được quyền tự ý định đoạt để thanh toán trực tiếp một phần hoặc toàn bộ khoản tiền đến hạn cho nhà thầu phụ (theo toàn quyền quyết định của mình); thông báo chung này không có sự tham gia của REE và cũng không buộc HVTS phải có nghĩa vụ thanh toán cho nhà thầu phụ (REE) nếu BUCG không thanh toán tiền đến hạn cho REE.
[3] Tại Điều 16.7 của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 – phần II Điều kiện cụ thể của Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 có nội dung: “Theo điều khoản mục 59.5 Điều khoản Hợp đồng chính, Nhà thầu phụ sẽ được quyền nhận được thanh toán trực tiếp từ Chủ đầu tư, khi có xác nhận của Tư vấn Quản lý Dự án, tất cả các khoản thanh toán, trừ khoản tiền giữ lại, cho Hợp đồng phụ, mà Nhà thầu chính không thanh toán được cho Nhà thầu phụ”.
[4] Theo quy định nêu trên thì nhà thầu phụ (REE) sẽ được quyền nhận thanh toán trực tiếp từ chủ đầu tư (HVTS) với điều kiện là khi có xác nhận của Tư vấn Quản lý Dự án (AIC) là nhà thầu chính (BUCG) không thanh toán cho nhà thầu phụ (REE) các khoản tiền (trừ khoản tiền giữ lại cho hợp đồng thầu phụ). Như vậy, REE chỉ có quyền là quyền nhận thanh toán trực tiếp từ HVTS với điều kiện có xác nhận của AIC về các khoản tiền mà BUCG chưa thanh toán cho REE, không phải quyền đòi HVTS phải thanh toán các khoản tiền mà BUCG chưa thanh toán cho REE. Trong hồ sơ vụ án, không có tài liệu nào thể hiện AIC xác nhận việc BUCG còn nợ chưa thanh toán cho REE. Như vậy, REE không có quyền đòi HVTS phải thanh toán hoặc liên đới thanh toán các khoản tiền mà BUCG còn nợ REE theo Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 giữa BUCG và REE. Do đó, việc REE căn cứ vào Điều 16.7 của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 – phần II Điều kiện cụ thể của Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 để yêu cầu Tòa án buộc HVTS phải liên đới thanh toán và trực tiếp thanh toán trả REE số tiền là 7.436.160.000 đồng (tương đương với 317.988,47 USD), tiền lãi (từ ngày 15/01/2010 đến ngày 18/10/2018) là 8.391.734.000 đồng; tổng cộng là 15.827.894.000 đồng là không có cơ sở.
[5] Theo quy định tại Điều 3 của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 giữa BUCG và REE thì BUCG phải có nghĩa vụ trả cho REE các khoản tiền của thỏa thuận hợp đồng thầu phụ mà hai bên đã ký kết; HVTS không phải là một bên ký kết hợp đồng thầu phụ nên không bị ràng buộc nghĩa vụ của BUCG với REE theo Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007.
[6] Tại Biên bản thanh lý Hợp đồng ngày 25/9/2016, BUCG và HVTS xác nhận: Các bên thỏa thuận thanh lý Hợp đồng ngày 25/9/2006 cho công việc thi công tòa nhà Golden Westlake; BUCG xác nhận: Dự án trên đã được HVTS thanh toán đầy đủ cho BUCG và tất cả các đơn vị thầu phụ và nhà cung cấp đều đã được thanh toán đầy đủ cho các hạng mục mà họ đã thực hiện căn cứ theo hợp đồng thầu phụ.
[7] Như vậy, HVTS đã thanh toán toàn bộ dự án nêu trên cho nhà thầu chính BUCG và BUCG cũng đã xác nhận thanh toán đầy đủ cho các nhà thầu phụ, trong đó có REE, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại căn cứ vào “Lẽ công bằng” để buộc HVTS thanh toán số tiền 15.827.894.000 đồng cho REE là không đúng với Điều 3 của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 giữa BUCG và REE, không đúng với Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[8] Về tố tụng: HVTS là người kháng cáo, đã được Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vắng mặt thì bị coi như từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm là đúng với quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, do Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 49/2018/KDTM-ST ngày 05/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Bản án sơ thẩm này có hiệu lực thông qua Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Do đó, mặc dù Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm là không sai, nhưng cần phải kháng nghị hủy cả Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm nêu trên và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 49/2018/KDTM-ST ngày 05/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.
[Nguồn: Quyết đinh GĐT số 03/2022/KDTM-GĐT Ngày 22/3/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO]
Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:
📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn
♥️ Fanpage and Group:
https://www.facebook.com/fdvnlawfirm
https://www.facebook.com/lawyersindanang
https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat
https://www.facebook.com/groups/saymengheluat
https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam
🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định: 03/2022/KDTM-GĐT