Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm về tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm về tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

NHN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị đơn Văn phòng C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trịnh Minh H1 được thực hiện đúng trình tự, thủ tục và trong hạn luật định nên Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét lại bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và nội dung kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, xét thấy:

Về nguồn gốc quyền sử dụng đất và tài sản trên đất: Căn cứ lời khai của nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trịnh Minh H1 đều xác định có nguồn gốc do bà L và chồng bà L khai phá từ năm 1976 có diện tích 1027,9m2 thuộc thửa đất số 13, tờ bản đồ số 51 tại địa chỉ tổ C, khu D, phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, trên đất có nhà cấp 4. Năm 1986, chồng bà L chết không để lại di chúc, đến năm 2005 bà L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà L và được bà L trực tiếp quản lý sử dụng cho đến nay.

Về căn cứ xác lập quyền sử dụng đất của bà L: Căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ cũng như lời khai của nguyên đơn và ông H1, ông Đ thể hiện nhà đất và tài sản trên đất là tài sản chung của vợ chồng bà L nhưng năm 1986 chồng bà L chết không để lại di chúc đến năm 2005 bà L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng cấp sơ thẩm chưa yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ làm rõ căn cứ xác lập quyền sử dụng đất (chia thừa kế, tặng cho…) của bà L đối với toàn bộ diện tích đất nêu trên, khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng để xác định bà L có quyền của người sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích đất trên hay không.

Về hợp đồng cho tặng: Căn cứ Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số công chứng 305, quyền số 07 TP/CC-SCC/HĐGD được giao kết giữa bên tặng cho là bà Đào Thị L, bên được tặng cho là ông Trịnh Minh H1 đã được Văn phòng C chứng nhận ngày 20/7/2011 thể hiện quyền sử dụng đất tặng cho theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 768510 (số vào sổ 19809) do UBND thành phố H cấp ngày 04/11/2005 mang tên bà Đào Thị L, thuộc thửa đất số 13, tờ bản đồ số 51, địa chỉ thửa đất: tổ C khu D phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, có diện tích 1027.9m2, hợp đồng có chữ ký của bà L (chữ ký và họ tên đầy đủ, điểm chỉ), thời điểm này bà L khoẻ mạnh minh mẫn có đủ năng lực hành vi.

Nguyên đơn thừa nhận chữ ký, điểm chỉ và chữ viết họ tên dưới chữ ký là của mình nhưng cho rằng mình không biết đọc, chữ ký, việc ký được thực hiện trong tình trạng bị người khác cầm tay ký mà không biết nội dung văn bản được ký là gì. Nguyên đơn chưa đưa ra được căn cứ bị ép buộc và bản thân nguyên đơn cũng khai thời điểm đó mặc dù tuổi cao nhưng vẫn còn minh mẫn và chưa cho tặng nhà đất cho ai. Ngoài ra nguyên đơn còn chứng minh mình không biết chữ thông qua xác nhận của tổ trưởng và người hàng xóm cũng như lời khai anh Đ khai bà L không biết chữ nhưng những người này chưa đưa ra được chứng cứ chứng minh việc bà L không biết chữ, không đọc được để làm căn cứ cho lời khai của mình là có cơ sở nên chưa đầy đủ cơ sở vững chắc để xác định bà L là người không đọc được.

Về phía bị đơn cũng cho rằng bà L ký, viết họ tên tại hợp đồng, chữ ký tại giấy ra viện và khẳng định bà L đọc được nhưng cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh ngoài việc bà L ký tên và viết họ tên thì bà L có đọc được văn bản công chứng hay không, tại văn bản công chứng lại có nội dung “các bên giao kết đã đọc lại hợp đồng này, đã đồng ý toàn bộ nội dung ghi trong hợp đồng trước sự có mặt của công chứng viên” trong khi các lời khai của bị đơn khai bà L được Công chứng viên đã đọc lại hợp đồng cho người giao kết hợp đồng nghe và ký tên, tại hợp đồng thì không có nội dung về việc các bên được nghe công chứng viên đọc lại hợp đồng. Như vậy, giữa lời khai của công chứng viên, anh H1, người làm chứng và lời chứng là chưa thống nhất. Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện theo uỷ quyền của bị đơn cho rằng toàn bộ nội dung của hợp đồng tặng cho đã được công chứng viên đọc lại cho những người tham gia công chứng nghe theo quy định nhưng nội dung phần lời chứng là thực hiện theo biểu mẫu của Luật công chứng năm 2006 nên không có nội dung người tham gia công chứng được nghe đọc lại nhưng không có chứng cứ chứng minh cho bà L đọc được hợp đồng khi ký kết cũng như đọc lại cho bà L nghe.

Với những chứng cứ trong hồ sơ như trên là chưa đầy đủ cơ sở vững chắc để chứng minh bà L đọc được hoặc không đọc được khi ký hợp đồng, để chứng minh việc thể hiện ý chí của bà L khi ký kết hợp đồng. Trong vụ án này cần phải thu thập bổ sung chứng cứ về các giao dịch mà bà L đã tham gia trước hoặc sau khi ký hợp đồng để có cơ sở chứng minh cho việc bà L đọc được hay không đọc được và ý chí của bà L khi ký kết hợp đồng. Theo lời khai của nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà L chưa làm thủ tục phân chia di sản của ông T2 nhưng đã làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên cần thu thập bổ sung Văn bản phân chia di sản (nếu có), hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Đơn xin xác nhận, tờ khai xác định mốc giới, biên bản xác định ranh giới, đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2005…) để xác định khi bà L tham gia lập văn bản phân chia di sản (nếu có) bà L có biết chữ, đọc được hay không; Tại thời điểm năm 2005 các đơn đề nghị, xác nhận… đều là mẫu điền bằng chữ viết tay thì bà L có biết viết, biết đọc khi làm hồ sơ hay không và có cần người làm chứng hay không. Ngoài ra người đại diện theo uỷ quyền của anh H1 còn trình bày bà L đã tự làm thủ tục đăng ký khai tử cho ông T2, làm các thủ tục đăng ký mở tài khoản ngân hàng… Đây là những tài liệu chứng cứ cần thiết để xác định bà L ngoài lần ký hợp đồng cho tặng tại Văn phòng C thì trước đó bà L có tham gia các giao dịch dân sự và có viết, có đọc các văn bản giao dịch hay không, có cần người làm chứng hay không. Những chứng cứ này là cần thiết cho việc giải quyết vụ án đúng đắn và khách quan nhưng tại phiên toà phúc thẩm không thể bổ sung được.

Về đối tượng hợp đồng: như đã nhận định trên cho thấy cấp sơ thẩm chưa thu thập đủ chứng cứ về việc bà L được phân chia di sản đối với diện tích đất cho tặng nên chưa đủ chứng cứ để xác định việc bà L được cấp giấy chứng nhận là do được chia thừa kế hay căn cứ khác. Tại Giấy chứng nhận xác định đất có nội dung về nguồn gốc sử dụng đất “Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất như nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất” nên cần thiết phải thu thập chứng cứ để chứng minh cho quyền sử dụng đất trên có đủ điều kiện cho tặng hay không mới có cơ sở để đánh giá hiệu lực của hợp đồng một cách toàn diện.

Về việc thực hiện hợp đồng: phía người được tặng cho đã thực hiện đăng ký biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa có căn cứ chứng minh được nhận nhà và đất và thực tế cũng không sinh sống trên đất. Về phía người tặng cho vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ giao tài sản tặng cho, người tặng cho vẫn là người đang quản lý sử dụng đồng thời sau khi ký hợp đồng đến 2018 đã tiếp tục xây, sửa nhà và ở ổn định cho đến nay không có ai phản đối hoặc tranh chấp và bà L không đồng ý cho tặng đối với anh H1 nữa. Về phía anh H1 chưa đua ra được chứng cứ chứng minh đã được bà L giao đất cho mình trên thực tế.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị tạm ngừng phiên toà để thu thập tài liệu chứng cứ là không có căn cứ để chấp nhận.

Như vậy, HĐXX xét thấy cấp sơ thẩm xác định ngoài chữ ký tại hợp đồng cho tặng thì không còn tài liệu nào để chứng minh bà L biết chữ và chỉ căn cứ vào lời xác nhận của một số người làm chứng để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đầy đủ nên cần thiết phải huỷ bản án để thu thập bổ sung thêm chứng cứ theo quy định mới có thể giải quyết được vụ án một cách toàn diện, khách quan đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Do vậy, có cơ sở chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để huỷ bản án sơ thẩm giao cho Toà án nhân dân thành phố Hạ Long giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

Các nội dung kháng cáo khác của đương sự kháng cáo do bản án bị huỷ vì chưa đủ chứng cứ nên sẽ được giải quyết khi vụ án được giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm trên cơ sở chứng cứ của vụ án.

[3] Về án phí: do kháng cáo được chấp nhận nên bị đơn Văn phòng C và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trịnh Minh H1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Về án phí sơ thẩm được giải quyết theo quy định khi vụ án được giải quyết theo trình tự sơ thẩm.

[Nguồn: Bản án số 71/2024/DS-PT ngày 19/9/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 71/2024/DS-PT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan