Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, phía nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, không lý do. Xét, sau khi xét xử sơ thẩm nguyên đơn không có kháng cáo, tại phiên tòa phúc thẩm ngày 17/11/2023 đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có mặt, và đã có lời trình bày. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[2] Năm 2015, bà Huỳnh Thị K và ông Nguyễn Văn C có nhận chuyển nhượng thửa đất số 88, tờ bản bản đồ số 12, diện tích là 2.009m2 của ông Phan Tấn P, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 10/8/2015. Giáp ranh thửa đất số 88 là thửa đất số 92 của hộ gia đình bà Huỳnh Thị L, ông Nguyễn Văn B. Nguyên đơn cho rằng trong quá trình sử dụng bà L, ông B có lấn ranh sang phần đất của bà K ông C nên khởi kiện yêu cầu:

– Bị đơn trả lại diện tích đất 108m2 thửa đất số 88, tờ bản bản đồ số 12;

– Xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất của bà K, ông C với đất của bà L, ông B là đường thẳng nối từ các mốc 9- 10- A- 4 theo sơ đồ đo đạc ngày 03/02/2020 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện C.

[3] Bị đơn bà Huỳnh Thị L, ông Nguyễn Văn B trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 92, tờ bản đồ số 12 gồm một phần diện tích do bà L, ông B được ông Nguyễn Văn T2 tặng cho vào năm 1984, và một phần diện tích bà L, ông B nhận chuyển nhượng từ ông Phan Văn H1 vào năm 1985. Ranh đất thửa 88 và thửa 92 trước đây giữa bà K và bà L có bụi trúc làm ranh (bụi trúc này do ông P trồng) là đường cong, không phải đường thẳng như trong trích lục bản đồ địa chính và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 02 thửa, nên diện tích đất tranh chấp là đất của bà L, ông B quản lý sử dụng từ trước cho đến nay.

Vì vậy, bà L, ông B không đồng ý theo yêu cầu của bà K và ông C, đồng thời yêu cầu xác định ranh đất giữa đất của bà L, ông B thửa đất số 92 với đất của bà K, ông Chà thửa đất số 88 là đường thẳng nối các mốc 4- 11-10 – 9 theo sơ đồ đo đạc ngày 03/02/2020 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện C.

[4] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[4.1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã có những vi phạm tố tụng gây ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, cụ thể như sau:

– Theo văn bản số 526/XNC ngày 03/9/2020 của Phòng Q công an tỉnh Đ thì bà K, ông C đã xuất cảnh từ ngày 03/9/2018, không có thông tin nhập cảnh. Trong khi đó, đơn khởi kiện của bà K và ông Chà lập ngày 03/6/2019; Giấy ủy quyền của bà K, ông C ủy quyền cho ông Đinh Thanh T tham gia tố tụng tại Tòa án, được Văn phòng C4 chứng nhận ngày 31/5/2019 (là thời gian bà K, ông C không có mặt tại Việt Nam). Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận văn bản ủy quyền ngày 31/5/2019 mà không kiểm tra, xác minh, làm rõ mâu thuẫn trên và thụ lý đơn khởi kiện của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là sai.

Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm đã triệu tập Văn phòng C4 (nay là Văn phòng công chứng Nguyễn Lê N4) và công chứng viên Sơn Ngọc N3 để làm rõ hợp đồng ủy quyền của bà K, ông C cho ông T lập ngày 03/6/2019. Tuy nhiên, người đại diện của Văn phòng C4 (nay là Văn phòng C3) xác định theo hồ sơ lưu trữ tại Văn phòng công chứng thì việc chứng nhận ủy quyền là đúng quy định pháp luật vì có dấu lăn tay của đương sự, nhưng do công chứng viên Sơn Ngọc N3 đã nghỉ việc nên Văn phòng công chứng không thể xác định tại thời điểm chứng nhận hợp đồng thì bà K, ông C có mặt hay không. Vì vậy, sai sót này của cấp sơ thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.

– Chứng cứ nguyên đơn chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 775580 ngày 10/8/2015 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà K, ông C đối với thửa 88 có diện tích 2.009m2, thể hiện ranh giới thửa 88 và 92 là đường thẳng. Phần đất trên do nguyên đơn nhận chuyển nhượng từ ông Phan Tấn P.

Năm 1995 ông P được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 1.775m2. Năm 2008 ông P xin cấp đổi, và được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 2.009m2  (tăng so với giấy chứng nhận cấp năm 1995).

Phần đất của bị đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu vào năm 1998, diện tích là 1.837m2. Sau khi cấp đổi, năm 2008 bà L, ông B được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 92 với diện tích 1.327m2 (diện tích giảm so với giấy chứng nhận cấp năm 1998).

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đều trình bày ranh đất giữa thửa 88 và 92 là đường gấp khúc. Tại Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng đất 2019 và trích lục bản đồ địa chính số 7446/2019/TL.ĐC của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C cũng thể hiện ranh đất là đường gấp khúc. Trong khi đó, tại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho đương sự sau khi cấp đổi, và trích lục bản đồ địa chính số 2411/TL.ĐC ngày 10/6/2019, trích lục bản đồ địa chính số 6474/2020/TL.ĐC ngày 07/8/2020 thì ranh giới giữa 02 thửa đất là đường thẳng. Do trong các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp lần đầu vào năm 1995 (đối với phần đất của nguyên đơn), và năm 1998 (đối với phần đất của bị đơn) không thể hiện hình thể thửa đất, ranh đất giữa 02 thửa nên cần phải có ý kiến Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Ủy ban nhân dân huyện C vào tham gia tố tụng là xác định không đầy đủ đương sự.

[5.2] Về nội dung:

– Theo đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày khi nhận chuyển nhượng thửa 88, tờ bản đồ số 12, diện tích 2.009m2 từ ông P, thì không có đo vẽ và giao đất trên thực tế. Tại Văn bản số 702/UBND-NC ngày 12/3/2020 của Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đồng Tháp cũng xác nhận khi thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, bị đơn đều không có đo đạc lại thửa đất, nên không có căn cứ xác định nguyên đơn đã nhận đủ diện tích đất theo diện tích đã sang nhượng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, việc bà K, ông C căn cứ vào Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày 24/12/2018 có diện tích 1.654,2m2 (Thiếu với diện tích đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), thì có quyền khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với người chuyển nhượng đất cho nguyên đơn. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn khởi kiện bà L, ông B đã lấn chiếm phần diện tích đất bị thiếu là không đủ căn cứ.

– Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày trên phần đất đang tranh chấp hiện đang có ngôi mộ của ông B, được hình thành sau khi Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, nên ảnh hưởng đến việc thi hành án theo quyết định của Bản án sơ thẩm. Xét, đây là tình tiết mới gây ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên cần thiết phải kiểm tra xác minh lời trình bày này của bị đơn và xem xét thẩm định tại chỗ lại phần đất đang tranh chấp.

[6] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Bản án sơ thẩm đã có vi phạm tố tụng, và sai sót về nội dung ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự, mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn; Hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định pháp luật.

[7] Án phí là chi phí tố tụng:

– Án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng sẽ được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét khi giải quyết lại vụ án.

– Án phí dân sự phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm nên người có kháng cáo không phải chịu.

[Nguồn: Bản án số 96/2024/DS-PT ngày 13/3/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 96/2024/DS-PT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan