Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm về Tranh chấp QSDĐ vì Tòa sơ thẩm không thu thập đủ tài liệu, chứng cứ để xem xét tính có hiệu lực của giấy sang nhượng

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm về Tranh chấp QSDĐ vì Tòa sơ thẩm không thu thập đủ tài liệu, chứng cứ để xem xét tính có hiệu lực của giấy sang nhượng

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Đơn kháng cáo của ông Đặng Văn H đảm bảo đúng thủ tục, nội dung và nộp trong thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên hợp lệ; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận xem xét lại bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.

[1.2] Sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa: Tòa án đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, thông báo mở lại phiên tòa hợp lệ cho các đương sự; các đương sự vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc sự kiện bất khả kháng, một số đương sự vắng mặt đã có đơn xin xét xử vắng mặt và đây là phiên tòa lần thứ hai nên theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ. [2] Xét nội dung kháng cáo của ông Đặng Văn H thì thấy:

[2.1] Xác định diện tích đất tranh chấp:

Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – bà Trần Thị Quỳnh T và căn cứ vào Mảnh trích đo địa chính ngày 13/01/2022 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện X, có căn cứ để xác định: Quyền sử dụng đất tranh chấp diện tích 384,14m2 thuộc một phần thửa đất 68 (số cũ 31), tờ bản đồ số 102 (số cũ 63), tọa lạc tại thị trấn P, được xác định theo ranh bản đồ địa chính 2005. Tòa án cấp sơ thẩm xem xét giải quyết vụ án đối với diện tích đất 384,14 m2  là có căn cứ.

Các diện tích đất bà T chỉ ranh nằm ngoài ranh giới của thửa đất số 68 (số cũ 31), tờ bản đồ số 102 (số cũ 63) được xác định theo ranh bản đồ địa chính 2005 thể hiện trên Mảnh trích đo địa chính của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện X ngày 13/01/2022 thì bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết là phù hợp với Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2.2] Xét các chứng cứ của các đương sự cung cấp nhằm chứng minh cho phần diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình thì thấy:

[2.2.1] Nguồn gốc đất của diện tích tranh chấp:

Thửa  đất  722  được  ông  Hoàng  D  khai  phá  trước  năm  1976.  Ngày 12/01/1997, ông Hoàng D có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 722, tờ bản đồ số 5 với tổng diện tích 1.830m2. Đến ngày 11/4/1998, ông D được UBND huyện X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L 652480 cho thửa số 722, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.830m2 (trong đó có 130m2 đất thổ cư và 1.700m2 đất trồng cây lâu năm), tọa lạc tại thị trấn P

Ngày 08/8/2001, vợ chồng ông D chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đặng Văn H, diện tích 1.172,6m2 (đất ở 50 m, đất cây lâu năm 1.122,6m2) thửa số 722, tờ số 05; được Phòng Tài nguyên và Môi trường chỉnh lý biến động tại trang số 4 của GCNQSDĐ cho hộ ông Đặng Văn H ngày 24/8/2001. Diện tích còn lại của thửa 722, tờ bản đồ số 5 là 637,4m2 (trong đó có 80 m2 đất ở và 577,4m2 đất nông nghiệp).

Ngày 13/01/2004, ông Đặng Văn H được UBND huyện X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 079936 đối với diện tích 1.172,6m2 (Phần diện tích đất nhận chuyển nhượng của ông D), thửa số 89, tờ bản đồ số 63, tọa lạc tại thị trấn P Ngày 15/8/2006, Phòng T4 – UBND huyện X xác nhận tại trang 4 của Giấy chứng nhận QSD đất có nội dung: “Số liệu bản đồ số hóa năm 2005: Thửa số 89, tờ bản đồ số 63, diện tích 1.153,6m2”.

Ngày 08/10/2008, Phòng T4 – UBND huyện X điều chỉnh diện tích đất ở và số liệu theo hồ sơ địa chính lập năm 2005 tại Quyết định số 2951/QĐ-UBND ngày 07/10/2008 của UBND huyện X thì thửa 722 được điều chỉnh thành thửa số 31, tờ bản đồ số 5 được điều chỉnh thành tờ bản đồ số 63, diện tích 637,4m2 được điều chỉnh tăng thành 894,6m2 (trong đó 80 m2 đất ở được điều chỉnh thành 250m2 và 577,4m2 đất trồng cây lâu năm được điều chỉnh thành 644,6m2).

Ngày 05/6/2013, vợ chồng ông D ký hợp đồng chuyển nhượng QSD đất cho vợ chồng bà T tại Văn phòng C, theo đó diện tích chuyển nhượng 894,6 m2, thửa số 31, tờ bản đồ số 63, tọa lạc tại thị trấn P, huyện X. Ngày 27/6/2013, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện X ký xác nhận tại trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng L 652480 có nội dung: “Chuyển nhượng QSD đất hết diện tích cho ông Đặng Hoàng L2, bà Trần Thị Quỳnh T. Ngày 02/10/2015, ông L2 và bà T thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng, sang tên riêng cho bà T được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện X xác nhận tại trang bổ sung GCNQSDĐ.

Như vậy, nguồn gốc đất của bà T và ông H đều là nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Hoàng D.

[2.2.2] Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm: Ông Nguyễn Quang L cung cấp 01 giấy sang nhượng đất ngày 23/7/2002 giữa vợ chồng ông D và ông L, có nội dung: Vợ chồng ông D sang nhượng cho vợ chồng chú Luận L3 tại tổ B cùng thôn P thị trấn P bề ngang của lô đất là 5m, sâu là 40m, tổng cộng 200m2, phía tây giáp đất ông H, phía đông giáp đất nhà, phía nam giáp đất ông Đ3, phía bắc giáp đường đi của xóm, với giá 4.000.000 đồng. Trong năm 2002, ông L chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông H. Ông L cho rằng phần diện tích đất này đã được ông L nhận chuyển nhượng từ ông D và bà Đ, đã thanh toán tiền cho nhau; nên thuộc quyền sử dụng của ông L, nhưng do ông L đã chuyển nhượng cho ông H nên đề nghị Tòa án công nhận diện tích đất này cho ông H.

Hội đồng xét xử xét thấy:

Thứ nhất, để có căn cứ xác định phần diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ai thì phải xem xét tính có hiệu lực của giấy sang nhượng đất ngày 23/7/2002 giữa vợ chồng ông D và ông L. Cụ thể: làm rõ có việc ký chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông D và ông L không? Việc thanh toán tiền chuyển nhượng giữa các bên (nếu có)? Đồng thời cần xác định vị trí đất thể hiện trong giấy sang nhượng đất ngày 23/7/2002 nằm ở vị trí nào trong phần diện tích đất tranh chấp hiện nay giữa bà T và ông H. Nếu có căn cứ xác định giấy sang nhượng đất ngày 23/7/2002 có hiệu lực thì cần thiết phải công nhận quyền sử dụng đất mà vợ chồng ông D đã chuyển nhượng cho ông L.

Thứ hai, Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ được tính có hiệu lực của giấy sang nhượng đất ngày 23/7/2002 giữa vợ chồng ông D, bà Đ với ông L; nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã công nhận cho bà T được quyền sử dụng toàn bộ phần diện tích đất tranh chấp theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 05/6/2013, đăng ký chỉnh lý sang tên bà T ngày 27/6/2013 là chưa đủ căn cứ. Bởi lẽ, trường hợp có cơ sở công nhận giấy sang nhượng đất ngày 23/7/2002 giữa vợ chồng ông D, bà Đ với ông L có hiệu lực thì Tòa án phải xem xét lại tính có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bà T và vợ chồng bà Đ ký ngày 05/6/2013. Vì lý do, bà T không thuộc trường hợp người thứ ba ngay tình và cũng chỉ là người nhận chuyển nhượng QSD đất của vợ chồng ông D. Việc Tòa án cấp sơ thẩm dành quyền khởi kiện cho các đương sự giải quyết tranh chấp liên quan đến giao dịch chuyển nhượng ngày 23/7/2002 vì lý do trong quá trình giải quyết vụ án ông H và ông L không có yêu cầu là chưa phù hợp, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án.

Từ những phân tích trên, xét thấy: Do Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đủ tài liệu, chứng cứ để xem xét tính có hiệu lực của giấy sang nhượng đất ngày 23/7/2002 giữa vợ chồng ông D, bà Đ với ông L mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng cáo của ông Đặng Văn H, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

[3] Về chi phí tố tụng, về án phí dân sự sơ thẩm: Sẽ được giải quyết khi vụ án được giải quyết lại.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bản án bị hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên người kháng cáo không phải chịu.

[Nguồn: Bản số 233/2024/DS-PT ngày 30/9/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 233/2024/DS-PT 

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan