NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Võ Văn B: Ngoài các yêu cầu khởi kiện ban đầu thì tại phiên tòa sơ thẩm ngày 12-4-2022, nguyên đơn có ý kiến bổ sung yêu cầu Tòa án tuyên bố “Giấy mua bán đất” đề ngày 16-10-2019 vô hiệu. Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2022/DS-PT ngày 30-8-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 12-4-2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ, chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Đ giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. Sau khi thụ lý vụ án để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm (lần 2), Tòa án cấp sơ thẩm không hướng dẫn cho nguyên đơn về thủ tục khởi kiện bổ sung và thụ lý bổ sung đối với yêu cầu này là chưa đúng quy định tại khoản 1 Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BL 169 tập 18; BL 369 tập 41).
[2] Về tài sản tranh chấp, theo bị đơn thì tháng 10-2019 nguyên đơn chuyển nhượng nhà đất cho bị đơn với giá là 150.000.000đ. Theo bị đơn và ông C, bà V thì năm 2021 bị đơn chuyển nhượng cho ông C, bà V nhà đất với giá là 450.000.000đ. Theo kết quả định giá năm 2021 cũng như năm 2023, quyền sử dụng đất trị giá 1.861.500,000đ; nhà cùng các vật kiến trúc khác, cây lâu năm, cây cảnh trên đất trị giá 393.000.000đ.
[3] Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của ông C, bà V có liên quan đến đất và tài sản gắn liền với đất (nhà, vật kiến trúc, cây trồng) trên diện tích đất 744,6m2 thửa số 629, tờ bản đồ số 30, xã L. Theo lời trình bày của nguyên đơn và bà S, bà T thì vật kiến trúc và cây trồng trên đất tranh chấp là tài sản chung của nguyên đơn và bà S. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà S khai do bà thường xuyên đi làm ăn xa nhà trong khi gia đình bà vẫn sinh sống bình thường trong nhà đất này nên bà không biết gì về các giao dịch liên quan đến nhà đất của nguyên đơn với bà D và bà cũng không ký tên trên các hợp đồng giao dịch này, nguồn gốc đất là của cha mẹ chồng cho, căn nhà và các tài sản khác trên đất là tài sản chung của vợ chồng bà S. Tại Biên bản lấy lời khai của bà S ngày 03-3-2023 (BL 292 tập 33) thể hiện bà S không đồng ý với yêu cầu độc lập của ông C, bà V; bà đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị Tòa án chấp nhận trình bày và yêu cầu của nguyên đơn. Hội đồng xét xử thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà S đối với nhà, vật kiến trúc, cây trồng trên đất tranh chấp mà bà S cho rằng đó là tài sản chung của bà S và nguyên đơn. Nếu là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì nguyên đơn không có quyền tự định đoạt tài sản mà không có sự đồng ý của vợ là bà S vì vi phạm chế độ quyền sở hữu chung của vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình. Trường hợp quyền sử dụng đất là của riêng nguyên đơn nhưng nếu nguyên đơn đồng ý xây nhà chung của vợ chồng cũng đồng nghĩa với việc quyền sử dụng đất của nguyên đơn bị hạn chế nhất định trong khi định đoạt vì căn nhà trên đất không thể tách rời với đất. Tuy nhiên hồ sơ vụ án chưa thể hiện đã có thu thập các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho trình bày nêu trên của nguyên đơn và bà S, bà T và kết quả thu thập như thế nào. Theo Đơn yêu cầu ngày 23-8-2022 bà S trình bày: nhà và các vật kiến trúc trên đất do vợ chồng bà S xây năm 2005; bà S và nguyên đơn chung sống như vợ chồng từ năm 2002 nhưng đến năm 2013 mới đăng ký kết hôn (BL 233, 236 tập 23). Hồ sơ thể hiện ông Q1, bà T tặng cho nguyên đơn quyền sử dụng diện tích đất 744,6m2 thửa số 629, tờ bản đồ số 30, xã L vào ngày 08-12-2016 là sau khi nguyên đơn kết hôn với bà S (BL 91 tập 11). Bản án sơ thẩm lần 1 bị hủy để giải quyết sơ thẩm lại từ đầu vì lý do không đưa bà S vào tham gia tố tụng để xem xét quyền và nghĩa vụ của bà S. Tuy vậy, khi giải quyết sơ thẩm lần 2 này, Tòa án cấp sơ thẩm có đưa tên bà S vào tham gia tố tụng nhưng lại hoàn toàn không nhận định giải quyết gì về tài sản chung hay riêng của nguyên đơn và bà S, không đề cập giải quyết về tài sản trên đất trong giao dịch giữa nguyên đơn với bị đơn, giữa bị đơn với ông C, bà V mà chỉ giải quyết về quyền sử dụng đất, công nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bị đơn và ông C, bà V để buộc gia đình nguyên đơn giao đất và nhà cùng các tài sản khác trên đất cho ông C, bà V.
[4] Để giải quyết vụ án triệt để và có quyết định phù hợp, cần tiến hành xác minh các tài sản là nhà đất, vật kiến trúc, cây trồng trên đất tranh chấp được hình thành thời gian nào và hình thành như thế nào; khi ông Q1, bà T tặng cho nguyên đơn quyền sử dụng đất thì trên đất đã có các tài sản này hay chưa, nếu có thì do ai tạo dựng; xác minh về thời gian chung sống thực tế của vợ chồng nguyên đơn; bà S có hay không có đi làm ăn xa, ở đâu, có đúng là bà S không biết việc nguyên đơn là chồng bà ký các giao dịch liên quan đến nhà đất với bị đơn không, nguyên đơn và bị đơn trao đổi, thỏa thuận ký giấy tờ chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, cho thuê nhà và giao nhận tiền có mặt bà S không; tiền chuyển nhượng tài sản nguyên đơn sử dụng chung cho gia đình hay sử dụng riêng. Trên cơ sở đó mới xác định tài sản chung của nguyên đơn với bà S có hay không để đánh giá tính hợp pháp của các giao dịch giữa nguyên đơn với bị đơn. Trong vụ án này nhà đất đã chuyển sang cho người thứ ba là ông C, bà V nên phải xem xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký giữa bà D với ông C, bà V cũng như xem xét một cách toàn diện ông C, bà V có phải là người thứ ba ngay tình hay không. Bởi vì các vấn đề này liên quan đến việc quyết định các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu hay được công nhận hợp đồng.
[5] Ngoài ra, theo quy định của Tòa án nhân dân tối cao, đối với việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Thẩm phán phải giải thích cho các đương sự biết nếu bị Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng thì hậu quả của hợp đồng vô hiệu là như thế nào và hỏi đương sự về quyền yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Nội dung này phải được thể hiện vào văn bản lưu trong hồ sơ vụ án. Nếu đương sự đã được giải thích mà không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì Tòa án mới không giải quyết. Vụ án này, có nhiều giao dịch liên quan đến nhà đất nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không giải thích và không hỏi ý kiến của đương sự nên họ không có yêu cầu.
[6] Do đó, với những thiếu sót đã nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm thì cần phải hủy Bản án sơ thẩm để giải quyết lại, vì những vấn đề này không thể khắc phục được ở Tòa án cấp phúc thẩm.
[7] Án phí sơ thẩm và chi phí tố tụng sẽ được xem xét giải quyết khi vụ án được giải quyết sơ thẩm lại.
[8] Nguyên đơn không phải chịu án phí phúc thẩm.
[Nguồn: Bản án số 131/2024/DS-PT ngày 26/6/2024 của TÒA ÁN NHÂN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 131/2024/DS-PT
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn