Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm về tranh chấp chia tài sản chung, thừa kế QSDĐ và yêu cầu xác định QSDĐ để thi hành

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm về tranh chấp chia tài sản chung, thừa kế QSDĐ và yêu cầu xác định QSDĐ để thi hành

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên và những quy định pháp luật, Tòa án nhận định:

[1]. Xét quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thời hạn kháng cáo, sự có mặt, vắng mặt của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị C thì vụ án thuộc quan hệ pháp luật tranh chấp “Chia tài sản thuộc sở hữu chung và di sản thừa kế là quyền sử dụng đất” được quy định tại Điều 219 và Điều 612 Bộ luật dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 2, 5 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào đơn kháng cáo của bà Trần Thị C thì người kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Xét trong quá trình thụ lý vụ án và chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho đương sự theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân Sự, bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Xét yêu cầu kháng cáo của người kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Xét nguồn gốc thửa đất 1074 và thửa đất 148a: Căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thửa đất 1074 và thửa đất 148a đã được Ủy ban  nhân  dân  huyện  T  cấp  giấy  chứng  nhận  quyền  sử  dụng  đất  01742QSDĐ/358/QĐUB ngày 02/11/2000 cho hộ ông Nguyễn Văn Ú;

Căn cứ vào Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 37/2019/HNGĐ-ST, ngày 23/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước và Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 15/2020/HNGĐ-PT, ngày 11/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã xác định nguồn gốc thửa đất 1074 và thửa đất 148a do ông Nguyễn Văn B1 và bà Trần Thị C đã tạo lập trước khi ông Nguyễn Văn Ú và bà Nguyễn Thị Ú2 kết hôn năm 2001;

Căn cứ Công văn số 38/CAH-QLHC ngày 10/01/2023 của Công an huyện T, về việc cung cấp thông tin theo Công văn số 14/CV-TAH ngày 06/01/2023 thì thời điểm ngày 02/11/2000 hộ khẩu gia đình ông Ú2 gồm có ông Ú2 và bà C;

Căn cứ vào đơn xin xác nhận đề ngày 06/4/2020 được Công an xã T xác nhận ngày 22/4/2020 thì hộ ông Ú2 tại thời điểm 02/11/2000 có 04 thành viên, gồm: Bà C, ông B1, bà Đ, ông Ú 2.

Hi đồng xét xử nhận thấy: Thửa đất số 1074, tờ bản đồ 3, diện tích

8.196m2, theo đo đạc thực tế là 7.741,1m2 và phần còn lại của thửa đất số 148a, diện tích 1314,1m2 tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang do hộ ông Nguyễn Văn Ú đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận 01742/QSDĐ/358/QĐUB ngày 02/11/2000 có nguồn gốc từ việc vợ chồng bà Trần Thị C, ông Nguyễn Văn B1 khai hoang từ trước năm 1975;

Bà C, ông B1 và cùng các con quản lý, sử dụng phần đất cho đến khi các con lập gia đình và ra sống riêng. Do ông Ú là con trai Ú trong gia đình nên sống cùng ông B1, bà C và bà Đ là chị ông Ú bị mất năng lực hành vi dân sự;

Tuy nhiên, tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Ú thì không có ông Nguyễn Văn B1 trong sổ hộ khẩu theo xác nhận của Công an huyện T ngày 06/01/2023 nhưng vợ chồng ông B1, bà C là trực tiếp khai hoang từ năm 1975, giữ đất, sử dụng ổn định, lâu dài và để phần đất này cho ông Ú đăng ký kê khai, ông Ú được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định, phù hợp với xác nhận của Công an xã T vào ngày 22/4/2020, thành viên trong hộ ông Ú có 04 thành viên;

Căn cứ vào biên bản xác minh ngày 14/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đối với T1 ấp T về việc ông Nguyễn Văn B1 sinh sống tại địa phương đến năm 2009 ông Nguyễn Văn B1 mất;

Căn cứ vào biên bản xem, xét thẩm định tại chỗ ngày 11/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đối với thửa đất 1074 và thửa đất 148a thì trên thửa đất 1074 có ngôi mộ của ông Nguyễn Văn B1 được chôn cất cách ngôi nhà bà Trần Thị C đang sinh sống hơn 50m;

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định tại thời điểm cấp giấy chứng nhận cho hộ ông Nguyễn Văn Ú chỉ có ông Nguyễn Văn Ú và bà Trần Thị C là không chính xác mà tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Ú thì trong hộ ông Ú gồm có là bà C, ông B1, ông Ú và bà Đ nhưng bà Đ mất năng lực hành vi dân sự, không có công sức đóng góp vào việc khai hoang, giữ  đất nên tại thời điểm này phải xác định hộ gia đình ông Nguyễn Văn Ú gồm có: Ông Nguyễn Văn B1, bà Trần Thị C và ông Nguyễn Văn Ú;

Như vậy, hai thửa đất nêu trên khi chia tài sản chung theo hộ thì ông B1 có một phần. Năm 2009, ông Nguyễn Văn B1 mất nên phát sinh thừa kế, bà C có yêu cầu chia di sản thừa kế của ông B1 nên cần phải đưa hàng thừa kế của ông B1 vào tham gia tố tụng và chia di sản thừa kế theo quy định;

Vì Tòa án cấp sơ thẩm không chia di sản thừa kế theo yêu cầu của bà C nên không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người được hưởng di sản; Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục những thiếu sót này nên cần hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý yêu cầu của bà Trần Thị Ngọc Y là việc dân sự trong vụ án dân sự là không phù hợp và tại phần Quyết định của bản án sơ thẩm vừa giải quyết vụ án, vừa giải quyết việc dân sự mà cần phải thụ lý yêu cầu của bà Y là yêu cầu độc lập trong vụ án này không phải là việc dân sự;

Tòa án cấp sơ thẩm không chia bằng hiện vật cho bà C là không đúng. Bởi vì, khi ông B1 còn sống thì bà C, ông B1 xây dựng 01 ngôi nhà trên phần đất tranh chấp thuộc thửa đất 1074. Bà C là người già không có chỗ ở nào khác, bà C sinh sống cùng bà Đ là người mất năng lực hành vi dân sự, bà C là người trực tiếp chăm sóc bà Đ. Trong khi, ông Ú chỉ có một phần tài sản trong khối tài sản chung để ông Ú thi hành bản án có hiệu lực pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: “Đối với diện tích phần còn lại của thửa 148a là 1314,1m2, bà C không yêu cầu Tòa án giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét” là không phù hợp, bởi vì đây cũng là tài sản chung của hộ, có một phần là di sản của ông Nguyễn Văn B1, cần phải giải quyết luôn trong vụ án để xác định tài sản của ông Ú để đảm bảo thi hành án đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: “Xét ông Nguyễn Văn N4, bà Nguyễn Thị N3, ông Nguyễn Văn N có đơn yêu cầu độc lập đề ngày 15/6/2023, các yêu cầu này được đưa ra sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải ngày 12/6/2023, căn cứ vào khoản 2 Điều 201 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không xem xét” là chưa phù hợp, bởi vì như đã nhận định trên trong vụ án này là chia tài sản chung của hộ trong đó có một phần của ông Nguyễn Văn B1, ông B1 mất nên phát tranh chấp di sản thừa kế. Do đó cần phải thụ lý và tiến hành hòa giải lại để giải quyết triệt để vụ án;

Vì thế bà Trần Thị C kháng cáo yêu cầu hủy bản án dân sự sơ thẩm là có căn cứ nên chấp nhận yêu cầu kháng cáo, hủy bản án dân sự sơ thẩm.

[3]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà C là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

[4]. Đối với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[Nguồn: Bản án số 231/2024/DS-PT ngày 19/4/2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 231/2024/DS-PT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan