Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm và đình chỉ xét xử phúc thẩm do hồ sơ không đủ điều kiện khởi kiện

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm và đình chỉ xét xử phúc thẩm do hồ sơ không đủ điều kiện khởi kiện

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang kháng nghị trong thời hạn nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

 [2] Qua xem xét hồ sơ vụ án, kháng nghị đề nghị hủy án của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2.1] Về xác định quan hệ tranh chấp: Xuất phát từ hợp đồng tín dụng có hiệu lực và hợp đồng thế chấp bị vô hiệu theo Bản án phúc thẩm của Tòa án đã xét xử dẫn đến nguyên đơn cho rằng bị thiệt hại do hợp đồng thế chấp vô hiệu. Do đó cần xác định quan hệ nguyên đơn khởi kiện trong vụ án là “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu”. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” và áp dụng các điều luật quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để giải quyết tranh chấp là chưa đầy đủ, chính xác.

[2.2] Về điều kiện khởi kiện: Theo đơn khởi kiện của Ngân hàng P1 đề nghị Ủy ban nhân dân thị trấn R cùng với ông Huỳnh Văn M có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Ngân hàng. Do vậy, việc xác định trách nhiệm bồi thường của Ủy ban nhân dân thị trấn R phải được xem xét, giải quyết theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 của Luật này thì căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là phải có “Văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật này và có yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Tại khoản 5 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước giải thích rõ: “Văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường là văn bản đã có hiệu lực pháp luật do cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, trong đó xác định rõ hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ”

Theo hồ sơ thể hiện chưa có văn bản làm căn cứ yêu cầu UBND thị trấn R bồi thường thiệt hại do trong bản phúc thẩm có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang hoàn toàn không đề cập đến hành vi trái pháp luật của UBND thị trấn R nhưng nguyên đơn đã khởi kiện và cấp sơ thẩm xem xét để buộc Ủy ban nhân dân thị trấn R bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là chưa có căn cứ. Do vậy, thuộc trường hợp chưa đủ điều kiện khởi kiện đối với việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của UBND thị trấn R theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Ngân hàng cho rằng, Ủy ban nhân dân thị trấn R bồi thường theo trách nhiệm dân sự vì thực hiện chứng thực mang tính chất dịch vụ mà không phải thủ tục hành chính là không đúng. Bởi việc Ủy ban nhân dân thị trấn R thực hiện công việc chứng thực là nhiệm vụ công vụ của cơ quan hành chính Nhà nước theo quy định tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000; Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ và thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 của Bộ Tư pháp-Bộ T12 nên nếu Ủy ban nhân dân T phải bồi thường thiệt hại thì phải áp dụng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

[2.3] Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm đưa Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C, tỉnh Hậu Giang vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không đúng theo quy định tại Điều 74 của Bộ luật Dân sự do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai không có tư pháp nhân và cũng chưa có văn bản nào xác định hành vi thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai có trái pháp luật và thuộc trách nhiệm bồi thường Nhà nước hay không nhưng cấp sơ thẩm nhận định mức độ lỗi không đáng kể nên không phải bồi thường là chưa chính xác.

[2.4] Bên cạnh đó, đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo Bản án phúc thẩm số 24/2016/KDTM-PT ngày 09/3/2016 và Bản án phúc thẩm số 04/2018/KDTM-PT ngày 17/08/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang thì hợp đồng tín dụng được ký kết giữa nguyên đơn với bị đơn Công ty T11 và Công ty Đ2 có hiệu lực và buộc hai Công ty này có trách nhiệm trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký với Ngân hàng. Việc nguyên đơn cho rằng thiệt hại do hợp đồng thế chấp bị vô hiệu là khoản nợ không thể thu hồi là không đúng. Bởi nghĩa vụ của bị đơn vẫn phải thực hiện trả nợ theo bản án có hiệu lực pháp luật, bị đơn chậm thực hiện nghĩa vụ thì vẫn phải trả lãi suất phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã được tuyên trong bản án có hiệu lực. Hơn nữa, quyết định thi hành án xác minh điều kiện thi hành án cũng chỉ thể hiện 02 Công ty “Chưa có điều kiện thi hành án” dựa trên biên bản xác minh tài sản tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi có địa chỉ của Công ty, khi nào có điều kiện thi hành án thì Ngân hàng vẫn tiếp tục được thực hiện quyền yêu cầu thi hành án đối với bị đơn. Mặt khác, chưa xác định rõ trách nhiệm của bà T9 ông Y với tư cách chủ sở hữu Công ty đã góp đủ vốn điều lệ như đã đăng ký chưa, vốn điều lệ của Công ty còn hay không còn để làm căn cứ xác định Công ty còn tài sản hay không nhưng đã cho rằng có thiệt hại và khởi kiện là chưa đủ căn cứ.

Từ những thiếu sót do hồ sơ chưa có đủ điều kiện khởi kiện như đã phân tích trên, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 217, Điều 311 hủy Bản án sơ thẩm và đình chỉ xét xử phúc thẩm.

Xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về án phí dân sự phúc thẩm, án phí sơ thẩm: Không ai phải chịu. Đương sự được nhận lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.

[4] Về chi phí tố tụng: Ngân hàng phải chịu số tiền 14.800.000 đồng (Mười bốn triệu tám trăm nghìn đồng), đã nộp đủ.

[Nguồn: Bản án số 142/2023/DS-PT ngày 29/9/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 142/2023/DS-PT

…………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan